Tuesday, December 23, 2025

TẬP ĐOÀN BẤT ĐỘNG SẢN EVERGRANDE CHÍNH THỨC BỊ XÒA SỔ KHỎI SÀN CHỨNG KHOÁN SAU 16 NĂM: HỒI KẾT ĐẮNG CỦA MỘT BIỂU TƯỢNG LẪY LỪNG

Việc Evergrande bị huỷ niêm yết khỏi sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông khép lại một chương buồn. Song, khó khăn của ngành bất động sản Trung Quốc vẫn còn kéo dài.


China Evergrande Group từng là biểu tượng của sự thành công trong ngành bất động sản Trung Quốc với vị thế là nhà phát triển lớn nhất nước này. Năm 2009, Evergrande ghi dấu ấn với đợt phát hành cổ phiếu lần đầu (IPO) lớn nhất của một doanh nghiệp bất động sản tư nhân Trung Quốc trên sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông, đạt giá trị vốn hóa ấn tượng 9 tỷ USD. Đến năm 2017, giá trị vốn hóa tăng vọt hơn 5 lần, lên 51 tỷ USD, với giá cổ phiếu đạt đỉnh 31,39 HKD/cổ phiếu.

Tuy nhiên, đi cùng những thành tựu ấn tượng là gánh nặng nợ khổng lồ. Evergrande trở thành công ty bất động sản nặng nợ nhất thế giới, với hơn 300 tỷ USD nghĩa vụ nợ. Hành trình từ đỉnh cao đến vực sâu của Evergrande là câu chuyện cảnh báo về rủi ro của việc mở rộng quá mức dựa vào nợ tại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Giá cổ phiếu Evergrande bắt đầu lao dốc không phanh, chỉ còn 0,163 HKD/cổ phiếu trong lần giao dịch cuối cùng cách đây 19 tháng. Vốn hóa thị trường tụt xuống mức 282 triệu USD.


Sau khi vỡ nợ và thất bại trong việc hoàn tất kế hoạch tái cơ cấu, Evergrande bị tòa án Hồng Kông ra lệnh thanh lý vào ngày 29/1/2024. Do không thể khôi phục giao dịch trong vòng 18 tháng theo quy định, công ty chính thức bị hủy niêm yết khỏi Sở Giao dịch Chứng khoán Hồng Kông vào ngày 25/8/2025. Đây là một trong những vụ hủy niêm yết lớn nhất xét về giá trị thị trường và khối lượng giao dịch trong những năm gần đây.

Sự sụp đổ của Evergrande là một phần của cuộc khủng hoảng bất động sản chưa từng có tại Trung Quốc từ năm 2021. Ngành này từng chiếm khoảng 1/4 GDP của Trung Quốc, nhưng hiện đang đối mặt với tình trạng thiếu thanh khoản và nhu cầu thị trường suy giảm.


Evergrande không phải là trường hợp duy nhất. Đầu tháng 8/2025, China South City, một nhà phát triển bất động sản có hậu thuẫn từ nhà nước, cũng nhận lệnh thanh lý từ Tòa án Tối cao Hồng Kông, tiếp nối hàng loạt công ty tư nhân khác.

Nhà kinh tế trưởng Gary Ng của ngân hàng đầu tư Natixis nhận định: “Evergrande là một trong những ví dụ biểu tượng cho sự sụp đổ của ngành bất động sản Trung Quốc. Việc hủy niêm yết không chỉ mang tính biểu tượng mà còn đánh dấu sự kết thúc của kỷ nguyên hoàng kim của lĩnh vực này”.
Trong bối cảnh khủng hoảng, chính quyền Trung Quốc đã nỗ lực vực dậy ngành bất động sản. Tuy nhiên, người mua nhà vẫn đang chờ đợi bàn giao các dự án dang dở, trong khi chủ nợ hy vọng thu hồi vốn.

Giám đốc đầu tư Oscar Choi của Oscar and Partners Capital tại Hồng Kông cho biết: “Rất khó để kích thích nhu cầu tiêu dùng và tâm lý thị trường khi người dân không có tiền trong túi”.

Evergrande hiện từ chối bình luận về tình hình của mình. Trong khi đó, nhiều nhà phát triển bất động sản khác đang tìm cách tránh thanh lý bằng cách kêu gọi sự hỗ trợ từ các chủ nợ để tái cơ cấu nợ.

Sự sụp đổ của Evergrande cũng phản ánh số phận của nhà sáng lập Hui Ka Yan. Từ một kỹ thuật viên luyện thép ở tỉnh Hà Nam, ông vươn lên trở thành một trong những người giàu nhất Trung Quốc.

Tuy nhiên, tháng 3/2024, ông bị cấm vĩnh viễn tham gia thị trường chứng khoán và bị phạt 47 triệu NDT do các cáo buộc gian lận chứng khoán, thổi phồng số liệu và không công bố thông tin kịp thời. Kể từ khi bị bắt vào năm 2023, ông Hui không còn xuất hiện trước công chúng.

Ông Hui Ya Kan - Nhà sáng lập China Evergrande Group.

Các nhà thanh lý hiện đang theo đuổi các vụ kiện để phong tỏa tài sản ở nước ngoài của ông Hui và vợ cũ, đồng thời tìm cách thu hồi 6 tỷ USD tiền cổ tức và thù lao đã chi trả cho ông cùng các cựu lãnh đạo.

Tuy nhiên, quá trình thanh lý có thể kéo dài cả thập kỷ, với tỷ lệ thu hồi nợ cho các chủ nợ được dự báo rất thấp. Tính đến nay, các nhà thanh lý chỉ thu về khoảng 255 triệu USD từ việc bán tài sản ở nước ngoài, bao gồm trái phiếu, thẻ thành viên câu lạc bộ, tác phẩm nghệ thuật và xe hơi. Con số này còn khiêm tốn so với tổng giá trị 45 tỷ USD mà các chủ nợ yêu cầu.


Một vị khách đang xem mô hình khu chung cư tại phòng trưng bày của Tập đoàn Bất động sản Evergrande ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, vào năm 2013. Evergrande là một trong những nhà phát triển bất động sản lớn nhất Trung Quốc. Ảnh: Reuters.

Trong khi đó, sự sụp đổ của Evergrande đã làm tiêu tan hy vọng của nhiều người mua nhà và nhà đầu tư. Một người dùng trên mạng xã hội Douyin chia sẻ: “Tôi đã chọn Evergrande vì nghĩ rằng một công ty lớn như vậy sẽ không thể sụp đổ. Tôi đã sai”.

Vụ hủy niêm yết của Evergrande khép lại một chương trong lịch sử ngành bất động sản Trung Quốc, nhưng cuộc khủng hoảng vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. Ngành này tiếp tục đối mặt với những thách thức lớn, trong khi người mua nhà và chủ nợ vẫn đang chờ đợi một lối thoát.

Tham khảo Reuters
Anh Dũng / Theo: Nhịp sống Thị trường
Link tham khảo:




Monday, December 22, 2025

GERARD JOLING: NHỮNG GIAI ĐIỆU NỒNG ẤM KỶ NIỆM

Chính với nhạc phẩm kinh điển « Jamaica Farewell » (Giã từ Jamaica), Gerard Joling mở màn vòng lưu diễn châu Âu vào mùa thu 2025. Nam danh ca người Hà Lan đã chọn sân khấu làm nơi ăn mừng với giới hâm mộ 40 năm sự nghiệp. Trong số những giai điệu ăn khách của ông, một số bài từng được đặt thêm lời Việt như « Cho em về miền nắng ấm » của nhạc sĩ Phú Quang hay « Lời yêu thương » của tác giả Đức Huy.

Cánh đồng hoa tu-lip, biểu tưởng của Hà Lan. AP - Peter Dejong

Năm nay 65 tuổi, Gerard Joling nổi tiếng tại Hà Lan từ giữa những năm 1980, ban đầu như một ca sĩ và sau đó như một người dẫn chương trình truyền hình. Sinh trưởng tại thị trấn Schagen, (phía bắc Hà Lan) cách thành phố Amsterdam hơn 60 cây số, Gerard Joling ban đầu vào nghề sân khấu như một diễn viên múa, xuất hiện trong nhiều video nhạc pop của các nhóm nhạc trẻ ăn khách tại Hà Lan thời bấy giờ như Earth & Fire hay Dolly Dots.

Dịp may đến với ông vào năm 1985, nhờ lọt vào vòng chung kết chương trình thi hát SoundMixshow của Henny Huisman, Gerard Joling ký được hợp đồng ghi âm chuyên nghiệp đầu tiên. Tuy không về đầu cuộc thi, nhưng Gerard Joling sau đó lại nổi tiếng hơn cả giọng ca đoạt giải nhất. Hai đĩa đơn ghi âm vào năm 1985, bao gồm « Love Is In Your Eyes » (Tình yêu trong đôi mắt) và « Ticket To The Tropics » (Về miền nắng ấm) giúp cho Gerard Joling từng bước chinh phục hạng nhất thị trường Hà Lan.

Bốn năm sau khi thành công tại nước nhà, Gerard Joling thực hiện bước đột phá trên thị trường quốc tế với album phòng thu thứ tư. Tập nhạc « No more bolero's » (1989) thành công lớn tại Hà Lan cũng như ở nước ngoài. Album này đứng đầu bảng xếp hạng tại nhiều nước châu Âu trong nhiều tuần liên tục. Sau khi được mời làm giọng ca đại diện cho Hà Lan nhân Cuộc thi hát Truyền hình châu Âu Eurovision vào năm 1988, Gerard Joling chinh phục thêm thị trường châu Á vào đầu thập niên 1990, trở thành nghệ sĩ Hà Lan ăn khách nhất ở nước ngoài. Nhân một cuộc phỏng vấn gần đây trên kênh truyền hình RTL, Gerard Joling cho biết là tính đến nay anh đã bán được hơn 30 triệu đĩa nhạc, trong đó có một nửa là nhờ vào thành công trên các thị trường châu Á từ cuối những năm 1980.


Song song với nghề ca hát, Gerard Joling càng thêm nổi tiếng một thập niên sau đó nhờ dẫn nhiều show truyền hình, hay làm giám khảo trong các cuộc thi tuyển lựa tài năng mới như « Popstars », Giọng ca hay nhất Hà Lan « The Voice Senior of Holland » hay Ca sĩ mặt nạ « The Masked Singer » …Ban đầu khởi nghiệp hát solo, ông còn nổi tiếng nhờ hợp tac với nhiều tên tuổi khác trong làng giải trí : trong đó thành công nhất vẫn là ban nhạc De Toppers được thành lập lần đầu tiên vào năm 2005, cách đây vừa đúng hai thập niên.

Khi Gerard Joling hợp tác với hai ca sĩ trứ danh khác là René Froger và Gordon Heuckeroth, kế hoạch ban đầu của họ là tổ chức một đêm nhạc chủ đề với những ca khúc nổi tiếng, ba ca sĩ hát luân phiên, tiếp sức cho nhau và thường chỉ biểu diễn một lần duy nhất trên sân vận động. Thế nhưng trước sự thành công vang dội, vượt ngoài mọi dự đoán, nhóm De Toppers tổ chức biểu diễn ở quy mô lớn thường xuyên hơn.

Các đêm nhạc của họ trở thành điểm hẹn hàng năm của giới yêu nhạc nhẹ. Đội hình của nhóm đã thay đổi sau hai thập niên hoạt động và hiện bao gồm Gerard Joling, René Froger, Jeroen Van Der Boom và Jan Smit, chứ không còn có sự tham gia của Gordon Heuckeroth. Mặc dù khá bận rộn với lịch diễn tại châu Âu, nhưng Gerard Joling vẫn sẽ có mặt tại buổi trình diễn của nhóm De Toppers vào mùa Giáng Sinh năm 2025 trên sân vận động thành phố Rotterdam.

Click để nghe "Lời Yêu Thương" - Đức Huy

Trong vòng 40 năm sự nghiệp, Gerard Joling đã ghi âm khoảng 20 album solo và hàng chục album cộng tác với nhiều nghệ sĩ khác. Một trong những tập nhạc hay nhất của ông mang tựa đề « Nostalgia » (Hoài niệm) khi ông thể hiện lại những giai điệu kinh điển trữ tình bằng chất giọng tenor ấm áp du dương của mình. Những bài ca nồng ấm kỷ niệm, từ « Unchained Melody » giai điệu tái sinh cho đến « Love Story» muôn thuở một chuyện tình.

Tuấn Thảo
Theo: RFI Tiếng Việt



RẰM THÁNG 10 LÀ NGÀY GÌ?

Rằm tháng 10 là ngày gì? Câu hỏi được nhiều người quan tâm khi muốn tìm hiểu về các ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đây là một trong những ngày rằm quan trọng trong năm, mang đậm giá trị tâm linh và văn hóa.


Trong đời sống tinh hoa của người Việt, các ngày lễ truyền thống luôn đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết gia đình, cộng đồng và cả tâm linh mỗi cá nhân. Một trong những ngày được nhắc đến nhiều đó chính là rằm tháng 10, một dịp có nhiều ý nghĩa đặc biệt để cảm tạ trời đất, thương nhớ tổ tiên và hướng về những giá trị tâm linh. Vậy, rằm tháng 10 là ngày gì? Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu một cách chi tiết về nguồn gốc, các phong tục tổ chức lễ cúng, cũng như những thông tin liên quan về nghỉ lễ của người lao động trong tháng 10 âm lịch.

Rằm tháng 10 là ngày gì trong văn hóa Việt Nam?

Rằm tháng 10 âm lịch, diễn ra vào ngày 15 tháng 10 âm lịch hàng năm, được biết đến với tên gọi chính thức là Tết Hạ Nguyên. Đây là một trong ba ngày rằm lớn quan trọng nhất trong năm của người Việt, bên cạnh Rằm Thượng Nguyên (rằm tháng Giêng) và Rằm Trung Nguyên (rằm tháng Bảy).

Tết Hạ Nguyên còn có nhiều tên gọi khác như Tết Cơm mới, Lễ mừng lúa mới, hay Tết Song Thập. Những tên gọi này đều thể hiện bản chất của ngày lễ - một dịp để người dân ăn mừng và tạ ơn cho vụ mùa bội thu.


Rằm tháng 10 âm lịch năm 2025 sẽ rơi vào khoảng đầu tháng 11 năm 2025 theo lịch dương.

Nguồn gốc và ý nghĩa sâu sắc của Tết Hạ Nguyên

Khi tìm hiểu rằm tháng 10 là ngày gì, chúng ta không thể bỏ qua nguồn gốc lịch sử và ý nghĩa tâm linh của ngày lễ này. Theo quan niệm truyền thống của người Việt, rằm tháng 10 là ngày vua Hạ Vũ giải tai ách cho nhân sinh, do đó còn được gọi là "Hạ Nguyên Giải Ách Thuỷ Quan Ðại Ðế Thắng Hội" hay "Hạ Nguyên Thuỷ Quan Thánh Ðản".

Trong tín ngưỡng dân gian, người ta tin rằng vào ngày rằm tháng 10, trên Thiên Đình sẽ cử Thần Tam Thanh xuống trần gian để tra xét những việc làm tốt xấu của con người và báo cáo lại với Ngọc Hoàng. Chính vì thế, đây là dịp để mọi người cầu nguyện cho sự bình an, may mắn và tránh được những tai họa.


Ý nghĩa đối với các tầng lớp xã hội

Đối với nông dân và người lao động

Rằm tháng 10 diễn ra vào thời điểm sau vụ thu hoạch chính trong năm, khi mà người nông dân đã hoàn thành việc gặt lúa mùa. Do đó, ngày này mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng như một lễ tạ ơn, nơi người dân thể hiện lòng biết ơn đối với đất trời, thần linh và tổ tiên đã ban cho một vụ mùa bội thu.

Câu ca dao "Rằm tháng Mười, mười người mười quảy" sinh động miêu tả không khí tấp nập, vui tươi của ngày lễ này, khi mọi nhà đều có thực phẩm từ vụ mùa mới để cúng lễ tạ ơn.

Đối với Phật tử và người tu hành

Trong Phật giáo, rằm tháng 10 được coi là một trong tứ trọng ân mà đức Phật đã dạy khi Ngài còn tại thế. Đây là dịp để các Phật tử hướng tâm tu tập, thể hiện lòng tri ân đối với Tam Bảo (Phật - Pháp - Tăng), tổ tiên và cha mẹ.

Ngày này cũng là cơ hội để mọi người kết nối với truyền thống gia đình trong ý nghĩa tri ân và báo ân, nhờ hồng ân chư Phật mười phương gia hộ và tổ tiên ông bà che chở.


Phong tục tập quán trong ngày Tết Hạ Nguyên

Khi hiểu được rằm tháng 10 là ngày gì, việc tìm hiểu các phong tục truyền thống cũng rất quan trọng. Vào ngày này, người dân sẽ sửa soạn các mâm cơm cúng bàn thờ tổ tiên, cúng các vị thần linh đã phù hộ cho mùa màng bội thu và cầu phúc cho gia đình.

Ở một số địa phương, ngày Tết Hạ Nguyên còn được xem là ngày cúng bái để cầu siêu cho linh hồn người thân đã khuất. Sau khi hoàn thành các nghi lễ cúng tạ ơn, cả gia đình sẽ sum họp quanh bếp lửa hồng với một bữa cơm đoàn tụ, ấm cúng, đặc biệt ý nghĩa trong tiết trời se lạnh của mùa đông.

Quy định pháp lý về nghỉ lễ trong ngày rằm tháng 10

Một câu hỏi thường gặp khi tìm hiểu rằm tháng 10 là ngày gì đó là liệu người lao động có được nghỉ làm việc hưởng nguyên lương hay không. Theo quy định tại Điều 112 Bộ luật Lao động 2019, rằm tháng 10 không thuộc danh sách các ngày lễ, tết mà người lao động được nghỉ làm việc hưởng nguyên lương do Nhà nước quy định.


Các ngày nghỉ lễ chính thức bao gồm: Tết Dương lịch, Tết Âm lịch, ngày Chiến thắng, ngày Quốc tế lao động, Quốc khánh và ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Do đó, nếu rằm tháng 10 trúng vào ngày làm việc bình thường, người lao động vẫn phải làm việc và không được nghỉ.

Tuy nhiên, người lao động có thể được phép nghỉ nếu chính sách công ty có quy định riêng hoặc có thể làm đơn xin nghỉ hưởng lương hoặc nghỉ không hưởng lương.

Giá trị văn hóa và tâm linh của Tết Hạ Nguyên

Hiểu được rằm tháng 10 là ngày gì giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về giá trị văn hóa truyền thống. Tết Hạ Nguyên không chỉ là một ngày lễ đơn thuần mà còn thể hiện triết lý sống của người Việt - luôn biết ơn và tri ân.

Ngày lễ này khuyến khích mọi người dừng lại trong cuộc sống bận rộn để nhìn nhận lại những gì mình đã có, cảm ơn thiên nhiên, tổ tiên và những người đã giúp đỡ mình. Đồng thời, đây cũng là dịp để gia đình sum họp, gắn kết tình cảm và truyền đạt những giá trị đạo đức tốt đẹp cho thế hệ trẻ.


Sự khác biệt giữa ba ngày rằm lớn trong năm

Trong hệ thống các ngày rằm quan trọng của người Việt, mỗi ngày đều có ý nghĩa riêng biệt. Rằm Thượng Nguyên (rằm tháng Giêng) tập trung vào việc cầu may mắn cho năm mới, Rằm Trung Nguyên (rằm tháng Bảy) là dịp cúng cô hồn và cầu siêu cho các linh hồn, còn Rằm Hạ Nguyên (rằm tháng 10) chú trọng vào việc tạ ơn và tri ân.

Tạm kết

Qua những thông tin trên, chúng ta đã có câu trả lời đầy đủ cho câu hỏi rằm tháng 10 là ngày gì. Tết Hạ Nguyên không chỉ là một ngày lễ truyền thống mà còn là biểu tượng của lòng biết ơn, tinh thần tri ân và giá trị gia đình trong văn hóa Việt Nam. Dù thời đại có thay đổi, những giá trị cốt lõi này vẫn luôn được gìn giữ và truyền nối qua các thế hệ.

Tuấn Vương / Theo: FPTshop

TỤC NGỮ: "KHÔN ĐÂU ĐẾN TRẺ, KHỎE KHÔNG ĐẾN GIÀ", Ý NGHĨA SÂU XA LÀ GÌ?

Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam, có những câu nghe qua tưởng đơn giản nhưng càng sống lâu càng thấy đúng, thấy thấm. “Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già” là một trong những câu như thế. Chỉ vỏn vẹn vài chữ, nhưng chứa đựng cả một triết lý nhân sinh về tuổi tác, sự trưởng thành và quy luật tự nhiên mà chẳng ai có thể cưỡng lại.


Quy luật tự nhiên của từng độ tuổi

Trẻ con chưa có đủ trải nghiệm để khôn ngoan như người lớn. Người già dù trí tuệ sâu sắc nhưng sức khỏe không còn như thuở thanh xuân. Nhưng nếu chỉ hiểu như vậy thì quá nông. Người xưa gửi gắm vào câu tục ngữ này một bài học sâu hơn: mỗi lứa tuổi đều có ưu điểm và hạn chế riêng, và quan trọng nhất là biết trân trọng giá trị của giai đoạn mình đang sống.

Tuổi trẻ mạnh mẽ, nhiệt huyết nhưng thiếu kinh nghiệm. Tuổi già từng trải, khôn ngoan nhưng sức lực giảm sút. Đó là quy luật tự nhiên, không ai tránh được.

Cái thiếu của tuổi trẻ và cái hơn của tuổi già

Người trẻ thường có sức lực, nhiệt huyết và cái “tôi” mạnh mẽ. Vì chưa trải qua nhiều phong ba nên dễ nảy sinh tâm lý tự mãn, nghĩ mình giỏi giang, nghĩ người khác không bằng mình. Không ít bạn trẻ ngày nay cũng vậy: tài năng có, nhưng trải đời lại ít; nhiệt tình có, nhưng sự thấu đáo còn thiếu.

Cái thiếu của tuổi trẻ không phải là trí thông minh, mà là độ sâu của trải nghiệm.

Người già không còn khỏe mạnh, nhưng họ có điều mà người trẻ chưa có: sự lắng đọng, sự trầm tĩnh, khả năng nhìn xa hơn một bước, hiểu đời thấu đáo hơn. Họ biết rằng:

Dù mình có giỏi đến đâu, vẫn còn người giỏi hơn. Dù mình có mạnh đến mấy, cũng không thể thắng nổi thời gian. Và mọi việc trong đời đều cần sự khiêm tốn và bình tĩnh.

Cái thiếu của tuổi trẻ không phải là trí thông minh, mà là độ sâu của trải nghiệm. Ảnh internet.

Những trải nghiệm được trả giá bằng thời gian giúp họ hiểu đời theo cách mà người trẻ chưa thể hiểu ngay được.

Tuy nhiên, cũng có những người tuổi cao nhưng kinh nghiệm sống lại hạn hẹp, lòng kiêu ngạo lớn. Lại có những người còn rất trẻ nhưng biết khiêm tốn học hỏi, tự rèn luyện, nên trí tuệ sâu sắc hơn nhiều người lớn tuổi. Và cũng có những người tuổi trẻ nhưng sức khỏe đã suy kiệt vì lối sống buông thả, nghiện ngập, không biết quý trọng chính mình.

Vậy nên sức khỏe và trí tuệ không hoàn toàn phụ thuộc vào tuổi tác, mà còn nằm ở cách mỗi người tu dưỡng bản thân.

Lời kết

“Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già” không phải là câu nói phân biệt tuổi tác. Trái lại, nó nhắc ta rằng, người trẻ hãy biết khiêm tốn, chăm chỉ học hỏi, đừng tự mãn khi mình mới chỉ biết một phần rất nhỏ của cuộc đời. Người lớn tuổi hãy bao dung và chỉ dạy, bởi những gì mình biết đã được đúc rút từ cả một đời, đáng để sẻ chia.

Người lớn tuổi hãy bao dung và chỉ dạy, bởi những gì mình biết đã được đúc rút từ cả một đời, đáng để sẻ chia. Ảnh minh họa.

Mỗi người, ở mỗi giai đoạn, hãy biết trân trọng chính mình: trân trọng sức khỏe khi còn trẻ, trân trọng trí tuệ khi về già.

Khi tuổi trẻ biết học hỏi từ tuổi già, và tuổi già biết nâng đỡ tuổi trẻ, đó chính là lúc sức mạnh của tập thể và của gia đình được phát huy trọn vẹn.

Khai Tâm biên tập
Theo: vandieuhay

Sunday, December 21, 2025

ĐÔNG CHÍ - NGÀY THANH TẨY CỦA NGƯỜI NHẬT

Ngày Đông chí được gọi là Toji trong tiếng Nhật, là ngày đánh dấu thời điểm chuyển mùa. Người Nhật có nhiều tập tục truyền thống vào Đông chí để giữ ấm cơ thể và để đánh dấu một ngày đặc biệt trong năm. Hôm nay hãy cùng Shizen tìm hiểu thêm về những tập tục này nhé!


Đông chí ở Nhật

Ngày Đông chí được gọi là Toji trong tiếng Nhật, là ngày có đêm dài nhất trong năm, đánh dấu thời điểm chuyển mùa. Trước ngày Đông chí, ban ngày thường khá ngắn. Sau ngày này, thời gian ban ngày trở nên dài hơn, ánh mặt trời chiếu sáng lâu hơn.


Người Nhật coi ngày Đông chí như thời điểm con người và thiên nhiên được tiếp thêm sức sống mới. Thời điểm chuyển từ ngày ngắn sáng ngày dài cũng mang ý nghĩa chuyển từ tiêu cực sang tích cực và người người sẽ gặp thêm nhiều may mắn trước thềm năm mới.

Người Nhật có nhiều tập tục truyền thống trong ngày Đông chí để giữ ấm cơ thể, tránh bị bệnh khi thời tiết ngày càng lạnh và để đánh dấu ngày đặc biệt này trong năm.

Tắm yuzu


Người Nhật rất thích tắm. Văn hóa tắm onsen của người Nhật đã nổi tiếng trên khắp thế giới. Tới ngày Đông chí, người Nhật cho thêm vào nước tắm những lát yuzu – một loại quả họ cam chanh. Tắm yuzu đã trở thành truyền thống ngày Đông chí tại Nhật Bản. Tập tục này được cho là có từ thời Edo (1603-1868).


Những trái yuzu chứa nhiều vitamin C, rất tốt cho cơ thể. Chúng giúp tăng sức đề kháng chống lại cảm lạnh và cảm cúm trong mùa đông. Những trái yuzu còn mang lại hương thơm đặc trưng cho nước tắm.

Những thứ có mùi thơm giống như Yuzu được cho là xua đuổi được tà khí. Thời điểm khi mặt trời tái sinh mọi người thường thanh lọc cơ thể bằng việc tắm nước Yuzu, xua đuổi tà khí cầu mong bình an vô sự (sức khỏe). Người Nhật có thói quen ăn yuzu và xát những lát yuzu lên da khi tắm trong ngày Đông chí.

Ăn bí đỏ

Món ăn đặc trưng trong ngày Đông chí tại Nhật Bản là bí đỏ, tên trong tiếng Nhật là kabocha.

Phong tục ăn bí đỏ được bắt đầu từ thời Edo. Thời đó, bí đỏ đọc chữ Hán là “Nankin”. Vì chữ “n” có nghĩa là “Mang theo vận may tới” nên ăn bí đỏ được cho là “Sẽ có điều tốt lành tới”. Người Nhật cho rằng sau ngày đông chí, mặt trời sẽ được tái sinh và vận may sẽ tới. Trong từ Nankin, chữ “n” xuất hiện 2 lần nên vào ngày đông chí mọi người thường ăn bí đỏ và cầu mong sự may mắn sẽ đến với mình.


Ở Nhật Bản, mùa của bí đỏ là mùa hè, nhưng vì có thể bảo quản được lâu nên vẫn có thể ăn được bí đỏ tới tận ngày đông chí. Những vitamin trong bí đỏ còn có tác dụng tăng sức đề kháng, phòng bệnh trong mùa đông.

Ngoài ra, người Nhật còn ăn những món ăn chế biến từ các loại rau củ mang ý nghĩa may mắn như cà rốt, củ cải trắng, mì udon, hạt bạch quả.

Đi đền cầu may

Xuất phát từ quan điểm ngày Đông chí là thời điểm kết thúc mùa đông, khởi đầu mùa xuân. Cũng như kết thúc những điều tồi tệ để chờ đón những điều tốt đẹp. Người Nhật thường đến các ngôi đền để xin vật cầu may Ichiyoraifuku. Từ ngày Đông chí tới ngày Setsubun (ngày 3/2 năm sau), một số ngôi đền Nhật Bản sẽ bán những vật cầu may cho người dân.


Tại Tokyo, ngôi đền bán vật cầu may được nhiều người dân tìm tới là đền Ana Hachimangu. Đây còn là ngôi đền thờ vị thần của sự giàu có, của cải nên những vật cầu may tại đây còn được cho là mang tới vận may về tài chính cho người dân.

Theo: Shizen

ĐẾ CHẾ 180 TỶ USD BỊ QUẬT NGÃ VÌ "NHỮNG DÒNG EXCEL": CỔ PHIẾU GIẢM GẦN 320 LẦN VỀ CÒN BẰNG "CỐC TRÀ ĐÁ"

Từng là biểu tượng của kỷ nguyên viễn thông Mỹ, WorldCom vươn lên đỉnh cao bằng tốc độ thâu tóm thần tốc và niềm tin của Phố Wall. Nhưng chỉ trong chớp mắt, đế chế ấy sụp đổ khi sự thật về những “con số phù phép” trong sổ sách kế toán bị phơi bày. Từ niềm tự hào của giới đầu tư, WorldCom trở thành biểu tượng cho lòng tham, sự dối trá và cú sập đau đớn nhất lịch sử doanh nghiệp Mỹ.


WorldCom – từng là gã khổng lồ viễn thông và là nhà cung cấp dịch vụ đường dài lớn thứ hai tại Mỹ – đã trở thành tâm điểm của một trong những vụ gian lận kế toán lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Sự sụp đổ của tập đoàn này không chỉ khiến thị trường chứng khoán toàn cầu chấn động, mà còn làm dấy lên nghi ngờ sâu sắc về đạo đức kinh doanh và năng lực giám sát tài chính tại Mỹ đầu thế kỷ 21.
Câu chuyện của WorldCom bắt đầu năm 1983 tại bang Mississippi, khi Bernie Ebbers – một cựu giáo viên thể dục – cùng một nhóm đối tác sáng lập công ty LDDS (Long Distance Discount Service), chuyên cung cấp dịch vụ điện thoại đường dài giá rẻ.

Dưới sự lãnh đạo của Ebbers, LDDS theo đuổi chiến lược thâu tóm táo bạo, dùng cổ phiếu thay cho tiền mặt để mua lại hàng loạt đối thủ nhằm mở rộng quy mô nhanh chóng. Chỉ trong nửa đầu thập niên 1990, công ty đã mua hơn 35 doanh nghiệp và đổi tên thành WorldCom vào năm 1995.

Trong chưa đầy một thập kỷ, WorldCom hoàn tất hơn 60 thương vụ thâu tóm, trong đó có thương vụ nổi bật với MCI Communications trị giá 37 tỷ USD. Ở thời kỳ đỉnh cao, WorldCom đạt vốn hóa thị trường gần 180 tỷ USD, giá cổ phiếu đạt 60 USD, và Ebbers trở thành tỷ phú với khối tài sản 1,4 tỷ USD.


Tuy nhiên, ánh hào quang nhanh chóng phai nhạt. Năm 2000, thương vụ sáp nhập trị giá 129 tỷ USD với Sprint bị giới chức Mỹ ngăn chặn vì lo ngại độc quyền. Cùng lúc đó, bong bóng dot-com nổ tung khiến cổ phiếu viễn thông lao dốc, đẩy WorldCom vào khủng hoảng.

Để giữ giá cổ phiếu và duy trì niềm tin của nhà đầu tư, ban lãnh đạo đã chỉ đạo thao túng sổ sách kế toán. Cốt lõi của hành vi gian lận là việc chuyển chi phí hoạt động (operating expenses) – như chi phí thuê đường truyền – thành chi phí đầu tư (capital expenditures), giúp thổi phồng lợi nhuận.

Nhờ thủ thuật này, WorldCom báo lãi 1,6 tỷ USD năm 2001 thay vì khoản lỗ 1,2 tỷ USD, và tiếp tục báo lãi 172 triệu USD trong quý I/2002. Ban đầu, công ty thừa nhận gian lận 3,8 tỷ USD trong giai đoạn 1999–2002, nhưng con số thực tế sau đó được xác định vượt 11 tỷ USD. Ngoài ra, WorldCom còn rút quỹ dự phòng để giảm chi phí báo cáo, che giấu tình trạng tài chính thua lỗ.
Vụ bê bối bị phát hiện giữa năm 2002 nhờ Cynthia Cooper – phó chủ tịch bộ phận kiểm toán nội bộ của WorldCom. Trong quá trình kiểm tra sổ sách, Cooper cùng đồng nghiệp Gene Morse phát hiện nhiều khoản mục bất thường, đặc biệt là chi phí “prepaid capacity” – một thuật ngữ kế toán mơ hồ.

Bất chấp sự ngăn cản từ giám đốc tài chính Scott Sullivan, Cooper vẫn tiếp tục điều tra bí mật vào ban đêm và báo cáo phát hiện của mình lên ủy ban kiểm toán cùng kiểm toán viên độc lập KPMG. Kết quả điều tra đã vạch trần vụ gian lận kế toán quy mô khổng lồ, khiến cả thị trường tài chính Mỹ rúng động. Năm 2002, tạp chí Time vinh danh Cynthia Cooper là “Nhân vật của năm” vì lòng dũng cảm và tinh thần liêm chính.

Bernard Ebbers, WorldCom CEO.

Tháng 4/2002, Bernie Ebbers buộc phải từ chức CEO, một phần vì ông nợ WorldCom hơn 400 triệu USD. Khi vụ bê bối vỡ lở, công ty đang gánh khoản nợ 41 tỷ USD, cùng áp lực lớn từ các chủ nợ như JPMorgan Trust, Mellon Bank và Citibank.

Tháng 7/2002, WorldCom nộp đơn phá sản theo Chương 11 với tổng tài sản hơn 107 tỷ USD – vụ phá sản doanh nghiệp lớn nhất lịch sử Mỹ tại thời điểm đó. Cổ phiếu rơi từ 63,5 USD xuống chỉ còn 0,20 USD (khoảng 5.000 đồng, tương đương giá 1 cốc trà đá ở thời điểm hiện tại), khiến nhà đầu tư thiệt hại hơn 180 tỷ USD và hơn 17.000 nhân viên mất việc.

Năm 2005, Ebbers bị kết án 25 năm tù vì lừa đảo chứng khoán và gian lận kế toán. CFO Scott Sullivan nhận án 5 năm tù sau khi nhận tội và ra làm chứng chống lại sếp cũ. Nhiều lãnh đạo khác của công ty cũng bị truy tố.

Cùng với vụ Enron, bê bối WorldCom đã tạo sức ép lớn buộc Quốc hội Mỹ phải cải tổ mạnh mẽ hệ thống giám sát doanh nghiệp. Năm 2002, Đạo luật Sarbanes–Oxley (SOX) ra đời, tăng cường minh bạch tài chính, quy trách nhiệm cá nhân cho lãnh đạo và siết chặt chế tài đối với gian lận kế toán.

Sau khi phá sản, WorldCom đổi tên thành MCI vào năm 2003, thoát khỏi tái cơ cấu năm 2004 và đến 2006 được Verizon Communications mua lại.

Vụ bê bối WorldCom là lời cảnh tỉnh sâu sắc cho giới doanh nhân và nhà đầu tư toàn cầu. Tăng trưởng thiếu kiểm soát và đạo đức kinh doanh yếu kém có thể biến “kỳ tích” thành thảm họa. Trong thế giới doanh nghiệp, lợi nhuận có thể là ảo, nhưng trách nhiệm, minh bạch và niềm tin thì luôn là thật.

Hồng Duy (Tổng hợp)
Theo: Nhịp Sống Thị Trường
Link tham khảo:




YẾN KINH BÁT TUYỆT (燕京八绝)

 “Yến Kinh bát tuyệt” (tên tiếng Trung: 燕京八绝) là cụm từ dùng để chỉ 8 nghề thủ công truyền thống đặc trưng của hoàng cung Trung Quốc. Vậy 8 loại nghề thủ công này là gì? Cùng Tiếng Trung Nguyên Khôi tìm hiểu ngay qua bài viết trong chuyên mục Văn hoá Trung Quốc hôm nay bạn nhé!

I. CẢNH THÁI LAM – 景泰蓝 

Cảnh Thái Lam (景泰蓝) là một loại kỹ thuật thủ công mỹ nghệ truyền thống của Trung Quốc, nổi bật với việc trang trí bề mặt kim loại bằng men và họa tiết phức tạp. 

Kỹ thuật này bắt đầu phát triển từ thời nhà Nguyên (1271–1368), nhưng đến triều đại nhà Minh, dưới thời vua Cảnh Thái (1450–1457), nghệ thuật này mới thực sự thịnh hành và trở thành biểu tượng của sự xa hoa trong cung đình. Tên gọi Cảnh Thái Lam ra đời cũng vì lẽ đó. 

Một số đặc trưng của nghệ thuật Cảnh Thái Lam có thể kể đến như: 

1. Chất liệu 

Khung chính của sản phẩm được làm từ đồng hoặc đồng thau. 

2. Kỹ thuật chế tác 

– Các đường chỉ kim loại mỏng (thường là đồng hoặc vàng) được uốn thành hoa văn và dán lên bề mặt. 

– Sau đó, các ô trống giữa các đường chỉ này được đổ men màu.

3. Quá trình nung

Sản phẩm được nung ở nhiệt độ cao để men màu bám chắc vào khung và có độ bóng. Sau khi nung, sản phẩm sẽ được mài nhẵn và đánh bóng để hoàn thiện. 

4. Hoa văn 

Thường mang phong cách truyền thống Trung Hoa, như hình rồng, phượng, hoa lá hoặc các họa tiết mang tính phong thủy. 

Hiện tại, nghệ thuật Cảnh Thái Lam đã được công nhận là một trong những di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia của Trung Quốc. 

II. NGỌC ĐIÊU – 玉雕 

Ngọc điêu là một nghệ thuật thủ công truyền thống của Trung Quốc, trong đó nghệ nhân sử dụng các loại ngọc quý để chạm khắc thành các tác phẩm nghệ thuật tinh xảo. Đây là một trong những nghề thủ công lâu đời và có giá trị cao trong văn hóa Trung Hoa, đặc biệt là ngọc được xem như biểu tượng của sự thanh cao, quyền lực và may mắn. Bởi lẽ theo quan niệm của người Trung Quốc, gọc được coi là biểu tượng của sự trong sạch, hoàn hảo và quyền lực. Trong đó, ngọc bích được đặc biệt coi trọng vì người Trung Hoa tin rằng nó mang lại sự bảo vệ, may mắn và thịnh vượng.

Một số đặc trưng của kỹ thuật chạm khắc ngọc có thể kể đến như: 

1. Chất liệu 

Các loại ngọc phổ biến nhất để chạm khắc bao gồm ngọc bích (jade), ngọc phỉ thúy (jadeite), ngọc thạch anh và nhiều loại đá quý khác. 

2. Kỹ thuật chạm khắc 

Nghệ nhân thường phải mất rất nhiều thời gian và công sức để chạm khắc ngọc, vì ngọc có độ cứng cao và dễ vỡ nếu xử lý sai cách. 

Các chi tiết được khắc rất tinh xảo, bao gồm các hình ảnh của thiên nhiên (hoa, cây cỏ, động vật), các nhân vật truyền thống (như Quan Âm, Phật) hoặc các biểu tượng phong thủy (rồng, phượng, kỳ lân).

Ngày nay ngọc điêu vẫn giữ nguyên giá trị, và các tác phẩm tinh xảo từ ngọc vẫn được đánh giá cao trong cả nghệ thuật lẫn phong thủy, là một phần quan trọng trong nền thủ công truyền thống của Trung Quốc.

III. NHA ĐIÊU – 牙雕 

Nha điêu (牙雕, chạm khắc ngà) là một nghệ thuật thủ công truyền thống của Trung Quốc, trong đó các nghệ nhân sử dụng ngà voi, ngà hải mã, hoặc ngà của các loài động vật khác để chạm khắc thành các tác phẩm nghệ thuật tinh xảo. 

Nghệ thuật chạm khắc ngà đã có lịch sử hàng nghìn năm tại Trung Quốc, từ thời nhà Thương và Chu (1600–256 TCN). Trong suốt thời kỳ phong kiến, các triều đình đã tích cực sử dụng ngà voi để tạo ra các vật phẩm xa xỉ cho hoàng gia và quan lại. Bởi lẽ, trong văn hóa Trung Quốc, ngà voi là biểu tượng của sự cao quý, vương giả và thịnh vượng. Các tác phẩm nha điêu thường được trưng bày trong cung điện và các gia đình giàu có, quyền lực. Đặc biệt, trong các triều đại nhà Minh và nhà Thanh, nha điêu đã đạt đến đỉnh cao với những tác phẩm nghệ thuật phức tạp và tinh xảo. 

Một số đặc trưng của kỹ thuật “Nha điêu” – chạm khắc ngà: 

1. Chất liệu 

Chất liệu chính của nha điêu là ngà voi, với màu trắng đặc trưng và độ bền cao. Ngà voi thường được lựa chọn vì tính chất mịn màng và khả năng tạo ra các chi tiết tinh xảo cao. 

2. Kỹ thuật chạm khắc 

– Nghệ nhân phải có kỹ năng cao để xử lý ngà vì nó dễ vỡ và đòi hỏi sự tinh tế trong việc khắc. Công đoạn chế tác bao gồm chạm trổ, mài dũa và đánh bóng để tạo ra những chi tiết sống động. 

– Các tác phẩm nha điêu thường mô phỏng những hình ảnh từ thiên nhiên (hoa lá, động vật), nhân vật lịch sử, thần thoại, hoặc các hình ảnh mang ý nghĩa tôn giáo (Phật, Bồ Tát).

Ở thời điểm hiện tại, do vấn đề bảo vệ động vật và môi trường, việc sử dụng ngà voi để chạm khắc đã bị hạn chế hoặc cấm tại nhiều nơi trên thế giới, bao gồm cả Trung Quốc. Tuy nhiên, các tác phẩm nha điêu cổ vẫn được trân trọng và giữ gìn như những di sản văn hóa quý giá, thể hiện kỹ thuật chạm khắc đỉnh cao của nghệ nhân thời xưa. 

IV. ĐIÊU TẤT – 雕漆 

Điêu tất (tiếng Trung: 雕漆) nghĩa là chạm khắc sơn mài. Đây là một nghệ thuật thủ công truyền thống của Trung Quốc, trong đó các nghệ nhân sử dụng kỹ thuật sơn mài và chạm khắc để tạo ra những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo trên các bề mặt như gỗ, tre, hoặc đồ gốm. Nghệ thuật điêu tất đã xuất hiện từ thời nhà Đường (618–907) và đạt đến đỉnh cao vào thời nhà Minh và nhà Thanh. Trong suốt nhiều thế kỷ, kỹ thuật này đã được phát triển và cải tiến, trở thành một phần không thể thiếu của văn hóa và mỹ nghệ Trung Hoa. 

Một số đặc trưng của nghệ thuật Điêu tất: 

1. Chất liệu

Đúng như cái tên, chất liệu chủ yếu được dùng để điêu khắc chính là sơn mài - nhựa cây sơn tự nhiên, thường được tráng nhiều lớp trên bề mặt gỗ, tre hoặc kim loại. Để làm phong phú hơn, các lớp sơn mài có thể được pha màu đỏ, đen, vàng hoặc xanh lá để tạo nền cho các hoa văn chạm khắc. 

2. Kỹ thuật chế tác 

– Tráng sơn mài: Sản phẩm được tráng nhiều lớp sơn mài (có thể lên đến hàng chục hoặc thậm chí hàng trăm lớp) để tạo độ dày và độ bóng cần thiết. Mỗi lớp sơn mài phải khô hoàn toàn trước khi lớp tiếp theo được thêm vào. 

– Chạm khắc: Sau khi đạt độ dày mong muốn, nghệ nhân bắt đầu chạm khắc trên bề mặt sơn mài, tạo ra các hoa văn tinh xảo. Các hoa văn thường mang phong cách cổ điển, như rồng, phượng, hoa lá, và các họa tiết truyền thống khác. 

3. Màu sắc 

Màu sắc đặc trưng của điêu tất là màu đỏ sơn son, một màu được coi là cao quý và quyền lực trong văn hóa Trung Quốc, mặc dù cũng có thể sử dụng các màu khác như đen, xanh hoặc vàng. 

Cho đến ngày nay, Điêu tất vẫn là một trong những hình thức thủ công mỹ nghệ truyền thống được giữ gìn và trân trọng. Các sản phẩm điêu tất có giá trị nghệ thuật cao, từ các món đồ nội thất, hộp đựng, đến các tác phẩm trang trí. Đây cũng là một trong những nghề thủ công đại diện cho văn hóa hoàng gia Trung Quốc, được sưu tầm và đánh giá cao trên toàn thế giới. 

V. KIM TẤT TƯƠNG KHẢM – 金漆镶嵌 

Kim tất tương khảm (tiếng Trung: 金漆镶嵌) là một nghệ thuật thủ công truyền thống của Trung Quốc, trong đó sử dụng kỹ thuật khảm vàng và các vật liệu quý lên bề mặt của các đồ vật, thường là gỗ hoặc kim loại. Nghệ thuật kim tất tương khảm đã có từ rất lâu trong lịch sử Trung Quốc, phát triển mạnh mẽ vào thời nhà Minh và nhà Thanh. Trong các triều đại này, kỹ thuật khảm vàng đã được cải tiến và trở thành một trong những hình thức thủ công mỹ nghệ phổ biến nhất trong cung đình, với sự xuất hiện của những món đồ nội thất và vật phẩm trang trí tinh xảo

Một số đặc trưng của nghệ thuật Kim tất tương khảm: 

1. Chất liệu 

– Kim tất (金漆) có nghĩa là sơn mài có pha lẫn vàng. Các lớp sơn mài thường được phủ nhiều lần, trong đó có thể trộn bột vàng hoặc lá vàng. 

– Tương khảm (镶嵌) là kỹ thuật khảm các vật liệu quý như vàng, bạc, ngọc, xà cừ hoặc ngà voi lên bề mặt đồ vật, thường là gỗ hoặc kim loại. 

Do đó, Kim tất tương khảm là hình thức khảm vàng và các vật liệu quý lên bề mặt của các đồ vật 

2. Kỹ thuật chế tác 

Tráng sơn mài: Tương tự như điêu tất, các sản phẩm kim tất tương khảm được tráng nhiều lớp sơn mài để tạo độ bóng và độ bền cho sản phẩm. 

Khảm vật liệu quý: Sau khi tráng sơn mài, các nghệ nhân sẽ tiến hành khảm các vật liệu quý vào các hoa văn đã được khắc trên bề mặt. Quá trình khảm đòi hỏi sự tỉ mỉ cao và kỹ năng điêu luyện, vì các vật liệu quý phải được cắt, mài và gắn vào đúng vị trí. 

3. Hoa văn và họa tiết 

Các tác phẩm thường có các họa tiết tinh xảo, phong phú, từ các hình ảnh truyền thống Trung Hoa như rồng, phượng, hoa lá cho đến các cảnh thiên nhiên hoặc các biểu tượng tôn giáo, phong thủy. Lá vàng và bột vàng thường được sử dụng để tạo hiệu ứng lấp lánh, sang trọng trên bề mặt.

VI. HOA TI TƯƠNG KHẢM - 花丝镶嵌

Hoa ti tương khảm (tên Tiếng Trung: 花丝镶嵌) có nghĩa là khảm dây tơ lên sản phẩm. Đây là một loại hình nghệ thuật thủ công tinh xảo của Trung Quốc, kết hợp khéo léo giữa kỹ thuật chạm trổ sợi kim loại mảnh (hoa ti) và kỹ thuật khảm các vật liệu quý (tương khảm) như đá quý, ngọc, vàng, bạc. Kỹ thuật hoa ti tương khảm có nguồn gốc từ thời nhà Hán (206 TCN – 220 SCN) và đã phát triển qua nhiều triều đại. Đặc biệt, vào thời nhà Minh và nhà Thanh, kỹ thuật này đã đạt đến đỉnh cao, với nhiều tác phẩm được chế tác cho hoàng cung và các gia đình quý tộc. Hoa ti tương khảm đã trở thành một biểu tượng của văn hóa hoàng cung Trung Quốc.

Đặc điểm của loại hình thủ công khảm dây tơ - Hoa ti tương khảm như sau:

1. Chất liệu 

Hoa ti (花丝) là sợi kim loại mảnh, thường là vàng, bạc, hoặc đồng, được kéo thành các sợi mảnh như sợi chỉ và sau đó uốn nắn thành các hình dạng khác nhau. 

Tương khảm (镶嵌) là kỹ thuật khảm ngọc, đá quý, san hô, hoặc các vật liệu quý khác vào các sợi hoa ti để tạo nên các chi tiết trang trí tinh tế. 

2. Kỹ thuật chế tác 

Hoa ti: Các sợi kim loại mảnh được xoắn, uốn hoặc bện lại thành các hình hoa văn phức tạp, như hoa lá, động vật, hoặc các họa tiết truyền thống Trung Hoa. 

Tương khảm: Sau khi tạo hình bằng các sợi kim loại, nghệ nhân sẽ khảm các loại ngọc, đá quý, hoặc các vật liệu khác vào bên trong khung hoa ti, tạo thành các chi tiết nổi bật, lấp lánh. 

3. Hoa văn và thiết kế 

Các tác phẩm hoa ti tương khảm thường có các họa tiết cực kỳ tinh xảo, từ hoa, bướm, chim chóc cho đến các biểu tượng văn hóa như rồng, phượng, hoa sen, hoặc các hình tượng phong thủy. Kỹ thuật này tạo ra các sản phẩm có hình thức mềm mại, uyển chuyển, giống như những đường chỉ mảnh uốn lượn trong không gian. 

VII. CUNG THẢM – 宫毯 

Cung thảm (tên tiếng Trung: 宫毯) là phương pháp dệt thảm bằng phương pháp thủ công truyền thống của Trung Quốc, đặc biệt được sử dụng trong các cung điện hoàng gia và các gia đình quý tộc thời xưa. Cung thảm đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử Trung Quốc, đặc biệt phát triển trong các triều đại nhà Minh và nhà Thanh, khi cung điện và các dinh thự quý tộc bắt đầu chú trọng hơn đến việc sử dụng thảm làm vật trang trí nội thất. Thảm được đặt làm riêng cho các không gian quan trọng trong cung điện, nơi hoàng đế và hoàng hậu sinh sống và tiến hành các nghi lễ quan trọng. 

Đặc điểm của Cung thảm: 

1. Chất liệu 

Cung thảm thường được làm từ lông cừu hoặc lụa, những vật liệu mềm mại và cao cấp. Lông cừu được sử dụng vì độ bền và cảm giác ấm áp, trong khi lụa mang lại vẻ bóng bẩy và sang trọng. 

2. Kỹ thuật dệt 

– Các thảm cung đình được dệt thủ công, đòi hỏi tay nghề cao từ những nghệ nhân. Quá trình này bao gồm việc lựa chọn sợi, nhuộm màu tự nhiên, và dệt theo các mẫu hoa văn phức tạp.

 – Cung thảm có độ dày và mật độ nút thắt rất cao, tạo ra bề mặt mềm mịn và bền chắc.

 3. Hoa văn và họa tiết 

– Thảm cung đình thường có các họa tiết phong phú và tinh xảo, từ hình ảnh rồng, phượng, hoa sen, hoa lá đến các biểu tượng hoàng gia và tôn giáo. 

– Màu sắc thường là các màu biểu tượng của hoàng gia như vàng, đỏ, xanh ngọc mang ý nghĩa may mắn, thịnh vượng và quyền lực. 

Hiện nay, nghệ thuật dệt cung thảm vẫn còn được duy trì và phát triển, chủ yếu để phục vụ việc bảo tồn và sưu tầm các tác phẩm thủ công truyền thống. Cung thảm không chỉ là biểu tượng của văn hóa hoàng gia Trung Quốc mà còn được đánh giá cao trên thị trường quốc tế nhờ vào giá trị nghệ thuật và sự công phu trong chế tác. 

Cung thảm hiện đại thường được dệt theo các thiết kế truyền thống, nhưng cũng có sự kết hợp với các yếu tố nghệ thuật đương đại để đáp ứng nhu cầu của thị trường. 

VIII. KINH TÚ – 京绣 

Kinh tú (tiếng Trung: 京绣) hay còn gọi là thêu Bắc Kinh, là một trong những nghệ thuật thêu truyền thống nổi tiếng của Trung Quốc. Kinh tú có lịch sử hơn 800 năm, phát triển mạnh mẽ từ thời nhà Nguyên và đạt đến đỉnh cao vào thời nhà Minh và nhà Thanh. Đây là một trong những kỹ thuật thêu cao cấp nhất, từng được sử dụng để tạo ra các bộ trang phục và vật phẩm dành cho hoàng đế và hoàng tộc. Kinh tú nổi tiếng với sự tinh xảo, kỹ thuật thêu phức tạp và những họa tiết phong phú, mang đậm dấu ấn văn hóa hoàng gia Trung Hoa.

Đặc điểm của Kinh tú: 

1. Chất liệu 

– Kinh tú thường được thêu trên các loại vải cao cấp như lụa, gấm, hoặc satin. 

– Sợi chỉ dùng để thêu thường là tơ tằm, đôi khi được kết hợp với các sợi vàng, bạc để tăng thêm sự sang trọng và quý phái. 

2. Kỹ thuật thêu

Kỹ thuật thêu cùa Kinh tú rất tỉ mỉ và yêu cầu độ chính xác cao. Các nghệ nhân phải có kỹ năng tinh tế để tạo ra những đường kim mũi chỉ mượt mà và chi tiết. Kinh tú có nhiều kỹ thuật thêu khác nhau, từ thêu phẳng, thêu nối dến thêu đắp để tạo chiều sâu cho các họa tiết. Một đặc trưng của Kinh tú là kỹ thuật phối màu tinh tế, làm cho các họa tiết thêu có hiệu ứng chuyển màu mềm mại, tự nhiên. 

3. Hoa văn và họa tiết 

Các họa tiết của Kinh tú thường là các biểu tượng hoàng gia như rồng, phượng, hoa sen, hoa mẫu đơn, cùng với các biểu tượng tôn giáo và phong thủy. Mỗi họa tiết đều mang ý nghĩa riêng, ví dụ như rồng thể hiện quyền lực và sức mạnh, phượng biểu trưng cho sự thanh cao và phú quý, còn hoa mẫu đơn là biểu tượng của sự thịnh vượng và sắc đẹp. 

Bên trên là khái quát về Yến Kinh bát tuyệt – 燕京八绝 – 8 loại nghệ thuật thủ công truyền thống của văn hoá Trung Quốc. Tiếng Trung Nguyên Khôi hy vọng thông tin này sẽ giúp ích cho bạn trong quá trình tìm kiếm thông tin về “cái nôi văn hoá phương Đông”.

Theo: Tiếng Trung Nguyên Khôi



CHỜ ĐỢI - LỜI HỨA THẦM LẶNG CỦA TIM

Chờ đợi là lời hứa thầm lặng với những gì ta trân quý nhất. Trong cái tĩnh có động, trong cái chậm có niềm tin, người biết chờ không phải vì không thể hành động mà vì hiểu rằng mọi sự trên đời đều có thời của nó.


Xuân không thể vội đến khi đông chưa qua và hoa không thể nở nếu chưa đủ sương trời. Trong Kinh Dịch có nói: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức.”

Trời vận hành mãi không nghỉ, quân tử cũng thế, bền bỉ mà không nóng vội. Chờ đợi, vì thế không phải là đứng yên mà là giữ tâm không loạn giữa biến động, để vạn vật tự đến khi đủ duyên. Người xưa gọi đó là thuận thiên, tức là thuận theo quy luật tự nhiên mà không cưỡng cầu.

Một hạt giống không thể nảy mầm trong ngày, một tấm lòng cũng cần thời gian để được minh chứng. Kẻ vội hái quả xanh chỉ nếm vị chát, người biết chờ sẽ thấy ngọt lành trong từng giọt sương sớm.

Chờ đợi là trí tuệ của người biết nhìn xa, là đức hạnh của người hiểu sâu. Trong chờ đợi có niềm tin, trong niềm tin có sự tĩnh và trong tĩnh có sức mạnh. Giống như dòng sông, dẫu chảy quanh co vẫn hướng về biển cả; như ánh trăng, dẫu có khi khuyết vẫn hẹn ngày tròn.

Mọi thứ đều mang nhịp riêng và ai giữ được lòng kiên định qua bão giông, ắt sẽ thấy ánh sáng khi mây tan. Chờ đợi cũng là cách để tâm trở về với chính mình không bị cuốn vào vội vã, không bị xao động bởi mất còn.


Khi tâm đã lặng, thời gian không còn là kẻ thù mà là người bạn đồng hành giúp ta thấu rõ nhân quả của mọi việc. Bởi chờ đợi xét đến cùng là một dạng tu hành. Tu sự kiên định, tu lòng tin, tu thiện niệm trong mọi tình huống, tu sự chân tâm từ tận đáy lòng, và tu chữ “nhẫn” giữa những điều chưa thành.

Và khi đã biết chờ trong Chân Thiện Nhẫn ấy, biết tin trong tĩnh lặng thì dù kết quả ra sao, lòng ta vẫn an nhiên. Như lời cổ nhân dạy:

“Không phải vì thấy được kết quả mới tin,
Mà chính vì có niềm tin nên mới thấy được kết quả.”


Vậy nên, chờ đợi không làm ta yếu đi mà khiến tâm trở nên bền vững như núi, dịu dàng như nước, sáng suốt như trăng soi giữa đêm dài.

Đó chính là cảnh giới của người hiểu Đạo: biết chờ mà không buông; biết tin mà không cưỡng.

Mỹ Mỹ / Theo: vandieuhay

HỌC CÁCH BÁN HÀNG ĐỘC ĐÁO TỪ CHỊ BÁN ỚT

Những người buôn bán ớt ngoài chợ sẽ luôn gặp phải câu hỏi tưởng đơn giản nhưng lại khó trả lời như thế này: “Ớt này của chị có cay không?”. Nếu là người bán hàng gặp phải câu hỏi như thế thì bạn nên trả lời sao cho khách ưng lòng đây nhỉ? Ớt nào mà không cay, chỉ là cay ít hay cay nhiều thôi, chứ không cay thì người ta mua ớt làm gì, thay vào đó mua dưa leo cũng được. Vậy nếu như người bán trả lời là cay thì đối với những người sợ cay thì họ có thể bỏ đi ngay, ngược lại nếu bảo ớt này không cay trong khi người khách lại thích ăn cay thì việc buôn bán chắc sẽ gặp rủi ro.


HỌC CÁCH BÁN HÀNG ĐỘC ĐÁO TỪ CHỊ BÁN ỚT

Là nhân viên kinh doanh dù đảm nhận vị trí cũng vài năm nhưng tôi vẫn thường bối rối khi khách hàng của mình đặt câu hỏi “khoai tây” như vậy. Một hôm nhân không có việc gì làm, tôi ghé qua góc ngã tư xin đứng bên cạnh một chị bán ớt với ý định thử xem chị ấy hóa giải câu hỏi hóc búa của khách hàng như thế nào. Nhân lúc trời gần trưa không có người đến mua, tôi dựa vào kinh nghiệm bán hàng của mình mà “dạy” chị ấy rằng: “Theo tôi chị hãy chia chỗ ớt này thành hai phần đi, ví dụ nếu có người muốn mua ớt cay thì cho họ chọn bên này, còn nếu không thì chỉ cho họ chỗ bên kia”.

Chị bán ớt nhìn tôi mỉm cười và nói một cách dịu dàng: “Không cần đâu!”. Hai người đang đà trao đổi thì có một anh đi xe máy ghé đến mua, quả nhiên anh ta đã đặt chính hỏi câu đó với người bán khi xe vẫn còn nổ máy: “Ớt của chị có cay không?” và chuyện thần kỳ đã xảy ra trước mắt tôi, theo bạn thì chị bán ớt đã nói như thế nào nhỉ?

Chị bán ớt với vẻ rất chắc chắn trả lời anh khách rằng: “Trái đậm màu thì cay, còn trái nhạt màu thì không cay!”. Anh khách vui lòng tắt máy đỗ xe để ngồi xuống chọn ớt, chọn xong trả tiền rồi đi khỏi. Rồi những quả ớt nhạt màu chẳng mấy chốc không còn lại bao nhiêu.


Rồi lại có một bác khách hàng lớn tuổi ghé đến, vẫn với câu hỏi đó: “Ớt của cô có cay không?”. Chị bán ớt nhìn vào số ớt đã vơi đi của mình, và đáp: “Dạ, ớt trái dài thì cay, ớt trái ngắn không cay!”. Quả nhiên, ông bác liền ngồi xuống mà bắt đầu chọn lựa theo sự phân loại của chị. Lần này là những trái ớt dài đã nhanh chóng hết sạch.

Vừa thú vị vừa lo lắng tôi nhìn những quả ớt vừa ngắn vừa đậm màu còn sót lại và nghĩ thầm “Để xem lần này chị nói thế nào đây?”. Hồi sau có một khách hàng khác đi lại hỏi: “Ớt có cay không bà chủ?”. Lúc này, chị bán ớt trả lời với vị khách một cách hoàn toàn tự tin: “Trái nào vỏ cứng thì cay, nếu vỏ mềm sẽ không cay!”. Tôi nghe xong hoàn toàn bội phục, quả nhiên là cách bán hàng thần kỳ, chỗ ớt bị phơi nắng nửa ngày trời, nên có rất nhiều quả ớt trở nên mềm nhũn vì mất nước.

Chị bán ớt đã bán xong số ớt của mình, trước khi rời khỏi, chị nói với tôi rằng: “Cách mà anh bày đó, những người đi bán ớt như tôi đều biết cả; còn cách vừa rồi thì chỉ có mình tôi biết thôi”.


Quá ư thần kỳ!

Thật ra bạn có bao giờ nghĩ rằng, những gì bạn bán đi không phải là hàng hóa, mà chính là:

1. Đối với những khách hàng lạ, điều cần bán đi chính là sự lễ phép.

2. Đối với những khách hàng quen thuộc, điều cần bán đi chính là sự nhiệt tình.

3. Đối với những khách hàng nóng tính, điều bán đi chính là hiệu suất.

4. Đối với những khách hàng ngạo mạn, điều thật sự bán đi chính là lòng nhẫn nại.

5. Đối với những người có tiền, điều mà bạn bán đi chính là sự tôn quý.

6. Đối với những người nghèo khổ, điều bán đi chính là lợi ích thiết thực.

7. Đối với những người thời thượng, điều bán đi chính là sự sang trọng.

8. Đối với những người chuyên nghiệp, điều mà bạn bán đi chính là sự chuyên nghiệp.

9. Đối với những người hào sảng, điều mà bạn bán đi chính là sự phóng khoáng.

10Đối với những người keo kiệt, điều thật sự bán đi chính là lợi ích.

11.Đối với những người sống hưởng thụ, điều cần bán đi chính là sự phục vụ.

12.Đối với những người hư vinh, điều bán đi chính là vinh dự.

13.Đối với những người hay bắt bẻ, điều bán đi chính là sự tinh tế.

14.Đối với những người hiền lành, điều cần bán đi chính là sự chân thành.

15.Đối với những người hay do dự, điều thật sự cần bán đi chính là sự đảm bảo.


Những người làm nghề kinh doanh, buôn bán thường hay nói với người mua rằng sản phẩm của họ tốt, sản phẩm của họ độc đáo, khác biệt và giá thành lại rẻ. Nếu như người bán hàng dựa theo những cách này thì nhất định sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. Lời khuyên là đừng vội vàng bán sản phẩm khi vừa mới bắt đầu, mà cần phải tìm hiểu rõ vấn đề, biết lắng nghe khách hàng để xem tiềm ẩn bên trong họ cần những gì. Nếu đã thấu hiểu, biết được nhu cầu tiềm ẩn bên trong của khách hàng thì khi đó việc bán hàng sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều.

BÀI HỌC CUỘC SỐNG
(Sưu tầm trên mạng)

Saturday, December 20, 2025

MỸ "NGẬM ĐẮNG NUỐT CAY" ĐÁNH MẤT KHO BÁU 2 TỶ USD TRÃI RỘNG BẰNG 1,820 SÂN BÓNG ĐÁ GIỮA SA MẠC: CÔNG NGHỆ ĐỈNH CAO THẾ GIỚI BỊ TỤT HẬU SAU VÀI NĂM, ĐỐT TIỀN TỶ KHÔNG SINH LỜI

Sự phát triển nhanh chóng của các tấm pin mặt trời giá rẻ đã khiến công nghệ tiên tiến một thời trở nên không còn hiệu quả về mặt kinh tế.


Nhà máy điện mặt trời Ivanpah Solar Electric Generating System tại bang California của Mỹ dự kiến sẽ đóng cửa vào năm 2026 sau hơn 10 năm vận hành. Dự án này bao gồm 173.500 tấm gương điều khiển bằng máy tính, trải rộng trên diện tích khoảng 1.300 ha tại sa mạc Mojave. Diện tích này tương đương 1.820 sân bóng đá tiêu chuẩn đặt cạnh nhau.

Ivanpah từng nhận được 1,6 tỷ USD bảo lãnh vay vốn liên bang để xây dựng một tổ hợp trị giá 2,2 tỷ USD, ứng dụng công nghệ điện mặt trời tập trung. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của các tấm pin quang điện giá rẻ đã khiến công nghệ này trở nên không còn hiệu quả về mặt kinh tế.

Công nghệ điện mặt trời tập trung đang trở thành “nạn nhân” của đổi mới sáng tạo.

Hoạt động xây dựng Ivanpah bắt đầu vào năm 2010. Nhà máy chính thức đi vào vận hành năm 2014. Tổng chi phí xây dựng là 1,6 tỷ USD, kèm theo các bảo lãnh vay vốn từ Bộ Năng lượng Mỹ. Ivanpah nổi bật với cấu trúc phức tạp, với 173.500 tấm gương phản xạ ánh nắng mặt trời vào bộ thu đặt trên ba tháp cao.

Sự phát triển của ngành năng lượng mặt trời và việc giá pin quang điện truyền thống giảm mạnh đã khiến Ivanpah trở thành một dự án thua lỗ. Điều này gây thất vọng cho nhà máy và đơn vị vận hành là NRG Energy. Đầu năm 2025, khách hàng mua điện chính của Ivanpah là PG&E thông báo sẽ hủy hợp đồng với NRG nhằm tiết kiệm chi phí cho khách hàng. Theo kế hoạch ban đầu, PG&E dự kiến mua điện từ nhà máy này đến năm 2039.


Công nghệ gương phản xạ đang bị loại bỏ trước cuộc cách mạng pin quang điện.

Trong 15 năm qua, giá điện mặt trời đã giảm khoảng 70%. Điều này khiến chi phí sản xuất điện từ pin mặt trời thấp hơn nhiều so với điện do Ivanpah tạo ra.

Vào thời điểm khánh thành, Ivanpah là nhà máy điện mặt trời lớn nhất thế giới và được kỳ vọng có tiềm năng lớn. Công nghệ điện mặt trời tập trung hoạt động bằng cách đun nóng chất lỏng để tạo hơi nước. Hơi nước này làm quay tuabin, từ đó phát điện.

Phương thức phát điện của Ivanpah từng được coi là công nghệ tiên tiến hàng đầu. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, công nghệ này chỉ còn được xem là lạc hậu so với quá trình phát triển công nghệ năng lượng mặt trời. Trong hơn 10 năm hoạt động, nhà máy có khả năng cung cấp điện cho hơn 140.000 hộ gia đình. Điều này cho thấy công nghệ có tính khả thi về mặt kỹ thuật, dù không hiệu quả về tài chính.

NRG Energy chưa công bố kế hoạch chính thức cho khu tổ hợp sau khi Ivanpah ngừng hoạt động. Tuy nhiên, chủ sở hữu nhà máy cho biết khu vực này có thể được tái sử dụng để lắp đặt hệ thống pin quang điện rẻ hơn và hiệu quả hơn. Đây hiện là tiêu chuẩn phổ biến của ngành năng lượng mặt trời và có thể giúp tận dụng phần nào tổ hợp lớn giữa sa mạc.


Việc Ivanpah có được coi là một thất bại hay không phụ thuộc vào góc nhìn đánh giá. Ivanpah đã giúp triển khai thương mại công nghệ điện mặt trời tập trung tại Mỹ. Tuy nhiên, dự án này không tạo ra làn sóng đầu tư trị giá hàng nghìn tỷ USD như công nghệ pin quang điện.

Việc Mỹ chấp nhận để mất một cơ sở trị giá khoảng 2 tỷ USD như Ivanpah vừa phản ánh sự tiến bộ công nghệ, vừa cho thấy sự lãng phí hạ tầng trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Việc đóng cửa nhà máy cho thấy tốc độ phát triển nhanh của công nghệ pin mặt trời đã khiến những dự án tốn kém trở nên lỗi thời. Đồng thời, điều này cũng phơi bày những rủi ro khi chính phủ chi tiêu quy mô lớn cho các công nghệ mới chưa được kiểm chứng đầy đủ.

Theo EcoNews
Thiên Di / Theo: Nhịp Sống Thị Trường
Link tham khảo:




PHÙNG NHẬP KINH SỨ (逢入京使) - SẦM THAM (岑參)


Phùng nhập kinh sứ

Cố viên đông vọng lộ man man,
Song tụ long chung lệ bất can.
Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
Bằng quân truyền ngữ báo bình an.


逢入京使

故園東望路漫漫
雙袖龍鐘淚不乾
馬上相逢無紙筆
憑君傳語報平安


Gặp sứ vào kinh
(Dịch thơ: Trần Trọng Kim)

Trời đông cách trở quê nhà,
Đầm đìa tay áo mắt nhoà lệ hoen.
Sẵn đâu giấy bút trên yên,
Gặp đây nhờ bác nhắn tin yên lành.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Sầm Tham 岑參 (715-770) tổ tiên ở Nam Dương sau di cư tới Giang Lăng, dòng dõi của tể tướng Sầm Văn Bản 岑文本 (595-645), thi nhân đời Đường đại biểu cho thơ biên tái cùng với Cao Thích 高適. Tác phẩm có Sầm Gia Châu thi tập 岑嘉州詩集.

Nguồn: Thi Viện