Wednesday, June 18, 2025

JERUSALEM - MIỀN ĐẤT THÁNH THUỘC VỀ AI?

Jerusalem – miền đất thiêng, một thánh địa nơi ba tôn giáo lớn đã gặp nhau: đạo Do Thái, đạo Kitô và đạo Hồi. Tại đó Chúa Yahweh đã hiện lên để giao ước với dân tộc Do Thái; Chúa Kitô đã bị đóng đinh trên Thánh giá; và cũng tại đó Giáo chủ Muhammad đạo Hồi đã hành hương.


Trải qua bao thế kỷ, tín đồ của ba tôn giáo cùng một gốc mà thù nghịch nhau để giành Thánh địa về mình. Đằng sau những cuộc xung đột nảy lửa vùng Trung Đông là một thiên sử thi bi tráng về lịch sử, tôn giáo, chính trị gai lửa và máu lệ của người Israel.


Do Thái giáo được xem là một trong những tôn giáo độc thần cổ đại nhất thế giới với chiều dài lịch sử hơn 3000 năm. Từ dân tộc Do Thái đã ra đời ba tôn giáo lớn nhất và ảnh hưởng nhất trên thế giới, khởi đầu là Do Thái giáo vào khoảng năm 1500 TCN, tiếp theo là Cơ đốc giáo được Chúa Jesus sáng lập vào giữa thế kỷ I như một nhánh ly khai từ Do Thái giáo, và sau đó là Hồi giáo được nhà tiên tri Muhammad sáng lập vào thế kỷ XI.


Chúa Jesus là người Do Thái vùng Galilee. Chúa Jesus và các tông đồ của Ngài là những người thực hành Do Thái giáo. Cơ đốc giáo giữ lại hầu hết các kinh điển cũ của Do Thái giáo trở thành ‘Cựu ước’, đồng thời biên soạn những khái niệm của Chúa Jesus thành ‘Tân Ước’. ‘Cựu Ước’ và ‘Tân Ước’ tạo thành ‘Kinh Thánh’.

Vì người Do Thái từ chối chấp nhận Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời. Cơ đốc giáo tin rằng Người Do Thái đã phản bội Chúa, từ đó phản đối và ghét bỏ người Do Thái, đây cũng là nguồn gốc của chủ nghĩa bài Do Thái.

Tuy nguyên thủy không phải là một nhánh ly khai từ Do Thái giáo hay Cơ đốc giáo, Hồi giáo tự cho mình là sự tiếp nối hoàn hảo và thay thế cho hai tôn giáo nói trên.


Jerusalem là thủ đô của vương quốc Israel cổ đại từ thế kỷ thứ 10 TCN khi vua David dựng đô, hơn 1,600 năm trước khi người Ả Rập chiếm được thành phố này. Mặc dù người Hồi giáo tin rằng Jerusalem là nơi mà nhà tiên tri Muhammad đã bắt đầu hành trình lên Thiên giới, thế nhưng hoàn toàn không có bằng chứng nào chứng minh rằng Muhammad đã từng đặt chân tới thành phố này, và người Ả Rập cũng chỉ chiếm được nó vào thời điểm 5 năm sau khi Muhammad qua đời. Thành phố Jerusalem thậm chí còn không được đề cập đến trong kinh Koran của đạo Hồi, ngược lại Kinh Cựu Ước của Do Thái giáo đã nhắc đến Jerusalem tổng cộng hơn 600 lần.

Muốn hiểu tại sao dân tộc Do Thái sau hai ngàn năm vong quốc, phiêu bạt khắp thế giới mà vẫn hướng về Jerusalem, hễ gặp nhau là chúc nhau “sang năm về Jerusalem”; muốn hiểu tại sao dân tộc ấy lại gắn kết với nhau, chống lại khối Ả Rập, và đế quốc Anh để tái lập quốc gia của họ trên một dải đất nhỏ hẹp giáp với biển và 3 mặt đương đầu Ả Rập; thì phải hiểu qua lịch sử của dân tộc Do Thái và những nỗi đau khổ, tủi nhục mà họ phải chịu hơn hai ngàn năm qua.

Thủy tổ người Israel


Xứ Israel, xưa tên là Canaan, có một vị trí rất quan trọng từ hồi thượng cổ. Nằm giữa Á Châu và Phi Châu, quay mặt ra Địa Trung Hải và quay lưng vào sa mạc; lại vào khoảng giữa hai trung tâm của hai nền văn minh sớm nhất của nhân loại Ai Cập và Mésopotamie.

Bản đồ Canaan năm 1692, của Philip Lea.

Người Israel (thường gọi là người Do Thái) có nguồn gốc từ người Hebrew cổ đại xuất hiện tại Trung Đông vào 4,000 năm trước. Lịch sử xa xưa của dân tộc Israel đã được ghi chép đầy đủ và rành mạch trong Thánh Kinh – Cựu Ước từ khi trời đất được tạo lập. Người Do Thái con cháu dòng dõi Abraham. Abraham là người đầu tiên đã được lệnh của Thượng đế, lập ra một quốc gia gồm toàn những con cháu của những gia đình còn tôn thờ Yahweh, tức là Đức Chúa Trời.


Một ngày kia, Yahweh phán bảo Abram rằng: “Hãy rời bỏ xứ sở ngươi, gia đình ngươi và nhà của cha ngươi, đi đến một nơi mà ta sẽ chỉ định. Ta sẽ chúc lành cho ngươi và từ ngươi, ta sẽ tạo nên một dân tộc lớn” (Sáng Thế Ký chương 12 câu 1 và 2).

Đó là vào khoảng năm 2.000 TCN. Theo Sách Xuất Hành trong Kinh Thánh, Abraham cùng gia đình rời bỏ quê hương ở Ur đi đến Harran. Tại đó, Abraham đã nhìn thấy Thượng Đế trong giấc mơ và được Người chỉ đường tới vùng đất Canaan.

Thượng Đế lập Giao ước với Abraham rằng: “Ta là Thiên Chúa toàn năng, và Ta lập Giao ước với ngươi. Ngươi sẽ là tổ phụ của nhiều dân tộc, và để đánh dấu Giao ước này, ngươi sẽ đổi tên thành Abraham (có nghĩa là “cha của nhiều dân tộc”). Ta sẽ giữ lời hứa, và xứ Canaan sẽ thuộc về ngươi và dòng dõi của ngươi đời đời; và Ta sẽ là Thiên Chúa của họ.”

Xứ Canaan về sau được gọi là Đất Hứa (Promised Land) là vì vậy. Abraham chấp nhận Giao Ước, và nguyện sẽ tôn thờ Thượng Đế – Đức Jehovah – là Thiên Chúa duy nhất.


Gia đình Abraham định cư ở Canaan và Abraham thành thủy tổ dân tộc Do Thái, đồng thời thành người sáng lập ra Do Thái giáo, một tôn giáo độc thần, gốc của đạo Kitô và đạo Hồi sau này.

Theo mô tả trong Kinh Thánh, xứ Canaan tương ứng với vùng Levant. Ngày nay là Liban, Israel, Palestine, phần phía Tây Jordan và Tây Nam Syria. Nó còn được hiểu là Ngã tư Tây Á.

Bản đồ Cận Đông của Robert de Vaugondy (1762), chỉ ra “Canaan” giới hạn ở Vùng đất thánh, loại trừ Liban và Syria.

Sau khi Abraham chết, trách nhiệm lãnh đạo được truyền lại cho con trai của ông là Isaac, và rồi đến con trai của Isaac là Jacob. Đến đời Jacob, Thượng đế đã chúc phúc và đặt tên cho ông là Israel, có nghĩa là “Kẻ chiến đấu với Thượng đế”. Và kể từ Jacob, người Hebrew được gọi là dân Israel. Kể từ đó, người Hebrew được gọi là ‘Son of Israel’ (Những người con của Israel)


Lịch sử của dân tộc Do Thái bắt đầu với câu chuyện của gia đình Abraham như vậy. Họ trở thành một thị tộc, rồi phát triển lớn hơn thành một bộ tộc, và cuối cùng cắm rễ để trở thành một dân tộc – dân tộc Do Thái.

Moses – nhà tiên tri sáng lập Do Thái giáo

Tại Canaan, một trăm năm sau Abraham, vào thời đại của Jacob, một nạn đói hoành hành khắp Canaan. Toàn thể gia tộc của Jacob khoảng 70 người phải di cư sang Ai Cập. Chuyến đi tị nạn tưởng chỉ để qua nạn đói năm đó, không ngờ kéo dài tới 400 năm.

“Người Ai Cập cưỡng bách con cái Israel lao động cực nhọc, làm cho đời sống của họ ra cay đắng” – Sách Xuất Hành chép lại các Pharaoh bóc lột họ như nô lệ, ép họ phải đi lao dịch nặng nhọc và độc ác nhất là ra lệnh dìm chết tất cả những bé trai Do Thái mới lọt lòng nhằm dần dần tiêu diệt dân Do Thái.

Giữa hoàn cảnh nô lệ đầy khổ cực của người Do Thái, Moses xuất hiện, như một phép màu của Thượng Đế để giải cứu dân Do Thái khỏi ách nô lệ. Đó là vào khoảng thế kỷ 15-14 TCN.


Theo lời kể trong Kinh Thánh, Moses được sinh ra ở Ai Cập, mẹ là người Do Thái. Một lần trong khi Moses dẫn cừu đi sâu vào vùng núi thiêng Sinai (thuộc bán đảo Sinai của Ai Cập ngày nay), bỗng Thiên Chúa hiện ra ở giữa một bụi gai đang bốc cháy. Rồi Moses nghe tiếng Chúa phán với ông: “Tiếng kêu van của con cái Israel đã thấu đến Ta; Ta đã thấy họ bị người Ai-cập hà hiếp khổ cực. Bây giờ ngươi hãy lại đây, và Ta sai ngươi đến Pharaon, để ngươi dẫn đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi khỏi đất nước tàn bạo đó, và ban cho một mảnh đất khác tốt lành, đượm sữa và mật.”. (Sách Xuất Hành Xh 3, 1-6. 9-12)

Moses cầm theo cây gậy linh thiêng của Thiên Chúa ban cho, dẫn họ thoái khỏi Ai Cập để đi vào sa mạc. Từ đó họ cố gắng giành lại miền đất hứa – vùng đất Canaan mà Thượng Đế đã hứa cho họ từ thời Abraham.

Trong hành trình gian truân về Miền Đất Hứa, khi người Do Thái dừng chân tại vùng núi thiêng Sinai. Từ ngọn núi này, Thiên Chúa đã truyền ban Mười Điều Răn cho dân Do Thái thông qua Moses. Mười Điều Răn tuyệt đối này là lề luật căn bản cho đời sống Do Thái giáo về sau.


Khi người Do Thái dừng chân tại vùng núi thiêng Sinai. Từ ngọn núi này, Thiên Chúa đã truyền ban Mười Điều Răn cho dân Do Thái thông qua Moses.

Cho tới năm 1251 TCN, người Do Thái mới trở về Canaan, lúc này đã bị người Philistine chiếm. Vua David lên nối ngôi, đánh thắng người Philistine, chiếm được toàn cõi Canaan dựng đô ở Jerusalem. Tới đời con David là Salomon, quốc gia Israel thịnh nhất. Ông cho cất một ngôi đền đẹp đẽ, đền Jerusalem, nghĩa là đền Bình trị.


586 TCN Vua Nebuchadrezzar II của Babylon phá hủy Ngôi Đền của Solomon và bắt dân Do Thái về Babylon làm nô lệ. Năm 538 TCN Đại đế Cyrus của Ba Tư tiêu diệt Đế quốc Babylon và cho phép người Do Thái trở về Jerusalem.

Tới năm 63 TCN, La Mã chiếm xứ Judea. Chính trong thời Hérode làm vua ở Judea mà đức Kitô ra đời ở gần Bethléem và thời kỳ Tân ước bắt đầu cho những người Kitô giáo.


Sự cai trị của La Mã mỗi ngày một tàn khốc. Năm 70 CN, quân đoàn La Mã dưới thời Hoàng đế Titus phá hủy đền thờ Jerusalem lần nữa. Người La Mã cấm họ xây lại đền ở nền cũ, lại đổi tên Jerusalem ra tên Aelia Capitolina, đổi tên Israel ra Palestine, theo cách gọi của họ như một cách để xoá bỏ gốc gác của người dân Israel, khiến họ quên đi nguồn gốc của mình.

Về bản chất Israel/Palestine đều nói đến vùng đất Canaan (hay Levant – Đất Thánh) trong Kinh Thánh tức là phần lãnh thổ Israel/Palestine ngày nay.

Từ khi người Do Thái mất quốc gia và phiêu bạt khắp thế giới. Đến lúc đế quốc La Mã sụp đổ, Palestine dần dần nội thuộc Byzance, Damas và Thổ Nhĩ Kỳ.

Trong Thánh kinh có lời tiên tri rằng: “Khi mà dân tộc “Israel” bị trục xuất ra khỏi xứ thì xứ sẽ bị hoang phế, không có dân cư”. Quả vậy, từ khi dân tộc Do Thái thành “một dân tộc không có đất đai” thì xứ Israel cũng thành “một đất đai không có dân tộc”, nghĩa là bao nhiêu dân tộc tiếp tục nhau lại sống tại đó, không một dân tộc nào lập nghiệp một cách vĩnh viễn, tạo nên nổi một quốc gia.


Miền đất hứa

Khảo cứu nguồn gốc của người Do Thái cho thấy: Vùng đất Palestine, Jerusalem được dân Do Thái coi là xứ sở mà Thiên Chúa đã ban cho họ để sinh sống đời đời, không ai có quyền cướp được.

Sở dĩ dân Do Thái đã đấu tranh suốt mấy ngàn năm bất chấp mọi sự vùi dập, tàn sát để chiếm lại những vùng đất tại Trung Đông, bao gồm cả vùng Sinai, một phần Ai Cập, Syria, Liban… là căn cứ vào lời phán truyền và lập thệ của Yahweh, Đức Chúa đã sáng tạo ra trời đất và muôn vật với Abraham, cho quyền con cháu Abraham và Isaac (tức là dân Israel) được làm chủ những vùng đất tại Trung Cận Đông hiện giờ.


Những điều ghi chép trong Cựu Ước, liên quan đến việc lập thệ giữa Yahweh và Abraham-Issac có một giá trị tuyệt đối về đức tin, tín đồ Do thái giáo hay Công giáo cũng như Tin Lành đều biết rõ việc Thiên chúa ban đất cho tổ phụ của người Do Thái là một sự thật, đó là nguồn cơn của việc người Israel chiếm lại miền đất mà Thiên Chúa ban cho họ.

“Sang năm về Jerusalem!”

Vì mất tổ quốc, phải lang thang, phiêu bạt khắp nơi mà không ở đâu được yên ổn, tới đâu cũng bị kỳ thị, hắt hủi, trục xuất, hành hung, chém giết, giữa những thời kỳ gai lửa và máu lệ, người Israel không khi nào nguôi tha thiết trở về Jerusalem – kinh đô Israel trong Thánh Kinh và luôn tin rằng số phận sẽ dẫn họ trở về khi Đấng Cứu Thế xuất hiện.

Mỗi ngày ba lần, người dân Do Thái nào cũng đọc kinh cầu nguyện xin Thiên chúa sớm phục hồi lại xứ Israel cho dân tộc của Ngài.


Mỗi ngày ba lần, người dân Do Thái nào cũng đọc kinh cầu nguyện xin Thiên chúa sớm phục hồi lại xứ Israel cho dân tộc của Ngài.

Dù gặp nhau ở chân trời góc bể nào, khi chia tay họ cũng chúc nhau: “Sang năm về Jerusalem”.

Israel thành một xứ trong mộng, một Thiên đường trong tâm trí họ: “Kẻ nào chỉ mới đặt chân lên Israel thì chết cũng được lên Thiên đường”.

Trong 2500 lưu vong, chịu bao đọa đày ô nhục, nỗi niềm tư hương của họ ai oán bi thương. Tháng giêng ở Âu Châu, giữa cảnh tuyết rơi băng đóng mà họ ăn lễ Tân Niên ở Israel, ăn những trái cây khô mọc bên bờ sông Jourdain. Họ cầu mưa không phải là cầu cho nơi họ ở, mà cho Đất Thánh của họ; ở Nam bán cầu, các mùa đều ngược với Bắc bán cầu, mà họ vẫn cầu nóng lạnh, mưa nắng cho Israel ở Bắc bán cầu.


Có những người không bao giờ được thấy Israel, chỉ nghe tổ tiên nói, chứ càng không biết nó nằm ở đâu trên bản đồ thế giới nữa, mà tới mùa gặt ở Israel, cũng làm lễ, rồi cầu nguyện, nhảy múa, ca hát, chúc nhau “Sang năm về Jerusalem!”.

Thiên đường đẫm lệ


Theo Thánh kinh, ngày Sabbath tức ngày thứ bảy, cấm không được buôn bán, nhưng nếu mua nhà cửa, đất cát ở Palestine thì vẫn được. Người nào không được sống ở Đất Thánh thì cũng mong chết ở đó, và nếu không được chết ở đó thì lại mong xác mình sẽ được “lăn dưới đất tới thung lũng Cédron” gần Jerusalem, hoặc gối đầu lên một túi nhỏ đựng một nắm đất ở Palestine.

Trong mọi mùa từ khắp nơi trên thế giới, từng đoàn người Do Thái dắt nhau hành trang ở Jerusalem, quỳ xuống khóc nức nở ở di tích còn lại của đền Salomon sau cuộc chiến tranh với người La Mã năm 70 – nơi bức tường phía Tây còn sót lại, vì thế bức tường đó có tên là bức tường than khóc (The Wailing Wall)


Trên bờ sông Babylone
Chúng tôi ngồi khóc than
và nhớ Sion!


Bức tường than khóc (The Wailing Wall).
(* Sion: chỉ Núi Đền, di tích thiêng của người Israel ở Jerusalem)


Đan Thư
Theo: gocnhosantruong.com



NGƯỜI THÔNG MINH CÓ 3 ĐIỀU KHÔNG BAO GIỜ NÓI ĐỂ TRÁNH KHẨU NGHIỆP

Người không biết nói chuyện thường gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp, quan hệ xã hội. Nhưng người hay nói lời vô tội vạ, không phân phải trái, đúng sai có vẻ cũng không ổn lắm!


Trước khi cất lời, có bao giờ bạn tự hỏi mình rằng điều đó có đáng nói, có hại gì cho người nghe không? Hãy cẩn thận, cân nhắc kỹ lưỡng khi chuẩn bị nói ra những điều này.

1. Những lời tức giận với người nhà

Trong cuộc sống, ai cũng khó tránh gặp phải chuyện phiền muộn. Người ta trong những lúc bực dọc, thường luôn không kiểm soát được cảm xúc của chính mình, nói ra những lời không nên nói. Nhất là những lúc ở cùng với người nhà, ta luôn phũ phàng, đôi khi là buột miệng tuôn ra những lời oán giận.

Rõ ràng trong tâm không hề nghĩ những điều ác độc đến vậy, nhưng ta vẫn chẳng thể kiểm soát được cái miệng của mình. Có người còn cảm thấy phải chọc giận đối phương thì cơn giận trong tâm mới nguôi đi được. Với người thân, chúng ta luôn khó nhẫn nhịn hơn cả.

Khi mâu thuẫn với cha mẹ, có lúc vô tình ta buột miệng nói: “Đã biết thế sao bố mẹ còn sinh con ra?“. Ôi, sinh con đâu phải là nghĩa vụ của cha mẹ, trái lại nó là gánh nặng của 9 tháng mang nặng, đẻ đau. Cha mẹ cấp cho ta một thân xác thịt, một sự sống này, họ nào có được điều chi? Đắng cay, vất vả mà nuôi ta khôn lớn, họ cũng chẳng trông mong gì ngoài việc ta được hạnh phúc, bình yên. Vậy mà ta có thể nói ra những lời đầy cạn tình, cạn nghĩa như vậy…

Khi vợ chồng cãi nhau, hễ động một chút là có thể sỉ vả: “Tôi bị mù nên mới vớ phải anh (cô)“. Đến tối, mỗi người ngủ một giường, mấy ngày không nhìn mặt nhau, không khí gia đình căng thẳng, ngột ngạt.

Những lúc chê trách con cái, theo thói quen ta thường mắng rằng: “Mày nhìn thử xem, con nhà người ta như thế nọ, như thế kia“… Lời nói ấy chẳng những không thể khiến trẻ tiến bộ mà còn mài mòn sự tự tin của chúng, khiến chúng luôn mang mặc cảm là một kẻ thấp hèn đến suốt đời.

Bị người lạ mắng chửi, ta chỉ tức giận nhất thời, cũng dễ quên, dễ bỏ qua ngay. Nhưng khi bị người nhà mắng nhiếc, ngoài tức giận ta còn thấy đau lòng. Những lời nói như dao nhọn, xuyên vào trái tim ta và gây ra tổn thất không thể đắp bù. Thực ra, giữa người nhà là luôn có mâu thuẫn, bất đồng.

Xử lý làm sao cho thấu tình đạt lý, không gây thương tổn cá nhân mà vẫn giữ được hòa khí mới là điều khó nhất. Lửa giận bừng bừng, nhiếc móc mấy câu, căng thẳng không thèm nhìn mặt nhau thì chỉ là cách hành xử của kẻ thất phu mà thôi.


2. Thổ lộ những lời tận đáy lòng với người mới quen biết

Có những lúc gặp phải áp lực quá lớn, không gánh chịu nổi, ta liền muốn bộc lộ, phát tiết hết ra và tìm một nơi để trút bầu tâm sự. Chính như nước lũ cần phải xả, ta cũng có những lúc muốn tìm người trò chuyện. Nhưng đừng quên rằng, nói chuyện cũng cần phải phân rõ đối tượng.

Có thể ta vừa quen biết một người bạn mới, cảm thấy nói chuyện rất hợp, liền dốc bầu tâm sự với người ta, vội vàng chia sẻ hết thảy chuyện thầm kín, riêng tư. Nhưng chưa được bao lâu, ta phát hiện được thì ra người mà mình vẫn tưởng có thể trở thành bạn thân của nhau nay đã trở nên xa lạ. Ta sẽ cảm thấy vô cùng hối hận về những điều lúc đầu mình đã thổ lộ với người ta.

Vậy nên đừng bao giờ vội vàng dốc bầu tâm sự với người lạ. Bởi vì những lời bạn nói không hẳn người khác thích nghe. Đã vậy, rất có thể họ còn cho bạn là kẻ nhiều chuyện, phiền phức. Ngoài ra, người mới quen biết, chưa rõ nhân phẩm tốt xấu, đã vội dốc bầu tâm sự, tri giao, rất có thể những điều bí mật của bạn sẽ bị tiết lộ và trở thành trò cười.

Quá thân thiết với người mới quen, ấy là điều đại kỵ của bậc quân tử. Kết giao bạn bè, lòng không nên vội, lời cũng không nên nói quá nhiều.

3. Nói xấu sau lưng người khác

Mấy người tụm lại cùng nhau thì thích làm gì nhất? Hẳn là tán gẫu. Trong lúc tán gẫu, thường sẽ vô ý nhắc đến một người nào đó, sau đó mọi câu chuyện đều sẽ xoay quanh cá nhân “đen đủi” kia. Nói đi nói lại, bắt đầu nói xấu người ta. Trong khi cao hứng, lúc câu chuyện lên đến cao trào thì ai nấy đều cảm thấy vô cùng sảng khoái. Nhưng khi cuộc tán gẫu kết thúc chẳng ai nghĩ hậu quả sẽ thế nào?

Nếu như bên cạnh bạn luôn có một người thích nói xấu sau lưng người khác, bạn sẽ cảm thấy thế nào? Chẳng phải người đó chẳng có tu dưỡng, không có khẩu đức hay sao? Bạn cũng sẽ không muốn kết giao với những người như vậy, e rằng trước mặt người khác họ lại cũng đơm đặt về mình. Xoay trở ngược lại, nếu bạn cũng thích đặt điều sau lưng người khác, ấn tượng mà bạn để lại trong tâm những người xung quanh cũng tệ hại như thế.


Làm người nên phải quang minh lỗi lạc, tuyệt đối đừng đeo mặt nạ, trước mặt một bộ sau lưng một bộ. Nếu như bạn có điều chẳng vừa lòng với ai đó, hoặc là nói thẳng trước mặt, hoặc là giữ ở trong lòng, tuyệt đối đừng nói xấu sau lưng. Nếu không muốn bị người khác giở trò xấu xí sau lưng, bản thân trước hết phải làm được điều này vậy.

Ai cũng muốn được tôn trọng, ai cũng đều mong được người khác lý giải. Lăn lộn trong xã hội, ngoài miệng chịu chút thiệt thòi thì có làm sao? Nói chuyện không hề đơn giản chỉ là việc cử động cái miệng, mà còn cần phải động não. Nói chuyện chính là một môn nghệ thuật.

Bệnh từ miệng vào, họa từ miệng ra, người muốn dưỡng lấy phúc khí cho mình thì đều nên học cách quản chế lời nói của mình. Trước khi nói hãy thêm một ý niệm cân nhắc đến người khác, hãy xem xét điều mình nói được lợi cho ai, gây hại thế nào. Đó mới là người nhân hậu vậy.

An Nhiên / Theo: ĐKN

THU PHONG TỪ - LƯU TRIỆT


Thu phong từ - Lưu Triệt

Thu phong khởi hề bạch vân phi,
Thảo mộc hoàng lạc hề nhạn nam quy.
Lan hữu tú hề cúc hữu phương,
Hoài giai nhân hề bất năng vương.
Phiếm lâu thuyền hề tế Phần hà,
Hoành trung lưu hề dương tố ba.
Tiêu cổ minh hề phát trạo ca,
Hoan lạc cực hề ai tình đa,
Thiếu tráng kỷ thì hề nại lão hà.


秋風辭 - 劉徹

秋風起兮白雲飛,
草木黃落兮雁南歸。
蘭有秀兮菊有芳,
懷佳人兮不能忘。
汎樓船兮濟汾河,
橫中流兮揚素波。
簫鼓鳴兮發櫂歌,
歡樂極兮哀情多,
少壯幾時兮奈老何。

Bài hát về gió thu
(Người dịch: (Không rõ))

Gió thu thổi làm bay mây trắng
Cỏ hoa tàn, nhạn thẳng về nam
Hoa lan đẹp, hoa cúc thơm
Nhớ giai nhân mãi vấn vương trong lòng
Chèo lâu thuyền qua sông Phần thủy
Ngang giữa dòng, sóng dậy trắng ngần
Điệu hò tiêu trống hòa ngân
Toàn vui vẻ, lại thêm phần thương đau
Trẻ trung khỏe mạnh bao lâu
Bỗng nhiên già lão bạc đầu biết sao ?


Sơ lược tiểu sử:

Hán Vũ Đế (Trung văn giản thể: 汉武帝; Trung văn phồn thể: 漢武帝; bính âm: Hàn Wǔdì), tên thật là Lưu Triệt (劉徹), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai thứ 11 của Hán Cảnh Đế, vua thứ sáu của nhà Hán với hoàng hậu thứ hai là Vương Chí, chào đời vào ngày 31 tháng 7 năm 156 TCN. Thời trẻ, nên Lưu Triệt giành được ngôi thái tử của anh trai Lưu Vinh nhờ vào cuộc hôn nhân cùng với Trần Hoàng hậu. Năm 141 TCN, sau cái chết của cha, ông bước lên ngôi hoàng đế và cai trị từ năm 140 TCN đến 87 TCN (54 năm), là vua trị vì lâu nhất trong các vua nhà Hán và lâu nhất ở Trung Quốc từ sau đời Tần Chiêu Tương vương đến trước đời Khang Hy. Ông được đánh giá là vị hoàng đế tài ba, đã làm nhiều việc củng cố nền cai trị và mở cửa ra bên ngoài. Dưới thời trị vì của ông, nhà Hán đã phát triển lớn về chính trị và quân đội, tiến hành các cuộc xâm lược vào Vệ Mãn Triều Tiên, Dạ Lang, Hung Nô, Nam Việt, Mân Việt, Đông Âu; kết thân và thiết lập quan hệ với các nước ở phía tây, mở rộng lãnh thổ phía đông đến bán đảo Triều Tiên, phía bắc đến vùng sa mạc Gobi, phía nam tới miền Bách Việt và phía tây vươn ra tận Trung Á. Ông chủ trương sử dụng Nho giáo làm tư tưởng trị nước, nhưng cũng tôn sùng đạo giáo. Ông qua đời vào ngày 29 tháng 3 năm 87 TCN ở tuổi 69.

Lưu Triệt là người sáng lập ra cơ quan nhạc phủ coi sóc về âm nhạc trong cung đình và sưu tầm những bài dân ca, nhạc khúc, khiến cho thơ ca phát triển mạnh mẽ. Bản thân ông cũng là người giỏi ca phú, nay còn các bài "Điệu Lý phu nhân phú" 悼李夫人賦, "Hồ Tử ca" 瓠子歌 (nhị thủ), "Thu phong từ" 秋風辭, "Lý phu nhân ca" 李夫人歌.

Nguồn: Thi Viện



8 LOÀI CỎ DẠI CÓ GIÁ TRỊ KHÔNG TƯỞNG

Có những loài cỏ dại mọc vất vưởng ở khắp nơi, được tận dụng một cách khôn ngoan lại trở thành món ăn hay vị thuốc có giá trị bậc nhất!

Sauerampfer (có tên gọi tiếng Anh là Sorrel hay còn gọi là cây me chua, rau chút chít)


Đây là một loại gia vị đặc sản trong ẩm thực Pháp có lá xanh mềm dài 20 cm, rất giàu Vitamin C. Nó thường mọc trên những đồng cỏ ẩm ướt, khoảng trống trong rừng, lề đường hoặc thậm chí trong khu vườn của chính bạn. Các thủy thủ thời Trung Cổ ở Châu Âu thường hay sử dụng loại "cỏ" này cho món salat, súp hoặc chế thành nước sốt hay ăn trực tiếp với cá. Sauerampfer (cây me chua) đặc biệt ngăn ngừa bệnh scurvy (xuất huyết dưới da do thiếu vitamin C). Ngoài ra, nó còn chứa Vitamin A, sắt, magiê và kali giúp hỗ trợ tiêu hóa, thanh lọc máu và chữa các bệnh về da.

Bồ công anh


Bồ công anh thường mọc trên những đồng cỏ và cánh đồng đầy nắng, ánh sáng. Nó chứa nhiều vitamin C, vitamin A, K, magie và cung cấp 10% lượng canxi cho cơ thể người. Bồ công anh được cho là có tác dụng chống viêm và kích thích sự thèm ăn, trao đổi chất và tiêu hóa, thanh lọc gan, trị bệnh tiểu đường, giàu chất oxy hóa, cung cấp nhiều chất xơ, lợi tiểu, ngăn ngừa nhiễm trùng đường tiết niệu. Chúng ta có thể dùng rễ và hoa để nấu trà, dùng thân cây để làm nước sốt kết hợp với ngò, lá có thể kết hợp làm salat, hoặc gia vị cho món mỳ ống và hải sản.

Cỏ leo


Cỏ leo thường mọc vất vưởng ở các đồng cỏ, trên các bờ đê, các bãi đất bỏ hoang, các bờ tường… Ít ai nghĩ rằng cỏ leo có chứa Vitamin A và B, silica (hợp chất hóa học rất tốt cho da), saponin (một Glycosyd tự nhiên thường gặp trong nhiều loài thực vật, đặc biệt là sâm), kali và sắt. Rễ cỏ leo có thể được nghiền thành bột gia vị cho món ăn, hoặc nấu thành trà uống lợi tiểu, chống viêm, thanh lọc cơ thể.

Cây tầm ma


Cây tầm ma là thể cây bụi thường mọc ở những mảnh đất bồi giàu ni-tơ và chất dinh dưỡng. Lá và thân cây tầm ma rất bổ dưỡng vì chứa lượng canxi gấp năm lần so với cải xoăn cùng nhiều vitamin C, vitamin A, magiê, sắt và phốt pho hơn rau chân vịt. Cây tầm ma có tác dụng lợi tiểu nên vì thế được coi là thuốc chữa nhiễm trùng bàng quang. Ngoài ra cây tầm ma còn có trong các vị thuốc chữa chứng huyết áp cao, viêm mũi dị ứng, yếu sinh lý… Chiết xuất cây tầm ma có thể thoa trực tiếp lên da giúp giảm đâu khớp, đau cơ bắp, cải thiện độ săn chắc của các mô cơ. Lá của cây tầm ma có thể ăn được trực tiếp, trộn salad, ăn kèm với mỳ dẹt hoặc nấu súp cùng khoai tây, cá, thịt hay thậm chí được cho cả vào món bánh pancake.

Cỏ tinh thảo Chickweed


Chickweed (Stellaria media) là một loại cỏ dại cực kỳ khỏe mạnh có hoa thuộc họ Cẩm Chướng, thường mọc trên các cánh đồng bỏ hoang hoặc lề đường. Chickweed được ăn chín hay ăn như salad, đặc biệt thơm ngon khi trộn với cá hoặc măng tây thêm ít nước cốt chanh, dầu, muối và hạt tiêu. Chickweed thường ra hoa vào khoãng tháng năm với những cánh hoa nhỏ màu trắng. Nó cao tới 50 cm, mỏng manh với thân thảo màu xanh lá cây, giàu vitamin A, B và C, và axit béo Omega 6. Từ thời cổ đại nó đã được sử dụng như một thuốc mỡ để bôi hoặc thuốc đắp để điều trị tình trạng da bị ngứa. Ngoài ra, nó còn được sử dụng trong điều trị ho, viêm khớp dạng thấp, bệnh vẩy nến, loét dạ dày và như một "chất làm sạch máu". Chickweed có những kết nối thú vị về lịch sử và văn hóa. Nó là một trong bảy loại thảo dược được dùng nấu cháo vào mùa Xuân tại Nhật Bản.

Rau hay cỏ dại Giersch (tạm dịch là rau ngáp)


Giersch thường mọc ở trên mọi con đường, rìa cánh đồng, thậm chí nhiều vô số kể trong vườn nhà. Nó chứa Vitamin C cao bất thường, nhiều kali, sắt và các khoáng chất khác. Giersch chủ yếu là tăng cường miễn dịch và tránh tình trạng mất nước. Nó có mùi vị lai giữa cà rốt và mùi tây, lá thường được sử dụng làm gia vị thêm cho món bơ sữa, nước sốt mayonnaise, súp kem và các món ăn khác.

Cỏ thi (hay còn gọi là cúc vạn diệp, dương kỳ thảo)Gundermann


Cỏ thi (Yarrow) thường được mọc trên những con đường cằn cỗi, đồng cỏ, bờ kè, hoặc trên sỏi đá. Nó chứa rất nhiều tinh dầu, chất đắng, protein, nhựa, inulin (chất quan trọng cho hệ tiêu hóa, sức đề kháng…), kali và đồng. Từ thời xa xưa, người Hy Lạp cổ đại đã dùng loại thảo mộc này để điều trị các vết thương ngoài da. Hoa và lá Yarrow được dùng để ăn và pha trà có tác dụng làm dịu, thư giãn, giảm các cơn đau đầu và đau nửa đầu liên quan đến thời tiết.. Lá Yarrow tươi dùng để cầm máu vết thương, điều trị các vấn đề về tiêu hóa, chữa sốt, giảm chảy máu kinh nguyệt, kích thích tuần hoàn và chữa đau nhức răng. Trong Y học Trung Quốc, người ta tin rằng Yarrrow có thể tác động đến thận, lá lách và các kênh năng lượng trong cơ thể. Lá non được dùng để chế biến cả trong muối thảo dược, cho vào bột mì hoặc bơ thảo mộc. Hoa được dùng trong các món rau trộn hoặc thả vào nước chanh làm đồ uống rất mát.

Cỏ Gundermann


Loại cỏ này thường mọc ở bìa rừng và trên những đồng cỏ ẩm ướt, nổi bật với lớp hoa màu tím. Nó có chứa vị đắng và nhiều tinh dầu nên rất hay được sử dụng làm gia vị hoặc chế biến thành nước sốt để chấm các món luộc hoặc rưới lên bánh crepe. Loại cỏ dại này theo truyền thống là 1 trong 9 loại thảo mộc bắt buộc phải xuất hiện trên bàn trước Lễ phục sinh.

Theo: Geo
Như San / Theo:Dân Việt

Tuesday, June 17, 2025

KHÁM PHÁ NGHỆ THUẬT THƯ PHÁP ĐỘC ĐÁO CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC


Thư pháp hay nghệ thuật viết chữ Hán Trung Hoa không chỉ là kho tàng văn hóa của Trung Quốc, mà còn là nghệ thuật có một không hai trong kho tàng văn hóa nghệ thuật của thế giới. Trong lịch sử hình thành và phát triển lâu dài, chữ Hán một mặt đóng vai trò xã hội quan trọng như trao đổi tư tưởng, kế thừa văn hóa, mặt khác đã hình thành nên nghệ thuật tạo hình độc đáo .


Thư pháp Trung Quốc là một nghệ thuật biểu hiện độc đáo của văn hóa Trung Quốc, nó được biết đến như: một bài thơ không lời, điệu nhảy vô hình; bức tranh không đường nét mà cũng là âm nhạc không lời.

Hôm nay các bạn hãy cùng Riba tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc cũng như sức hút của môn nghệ thuật đã tồn tại ngàn năm này nhé.

Nguồn gốc


Có ba loại chữ viết của các quốc gia khác nhau trên thế giới, đó là chữ viết, chữ tượng hình và bản ghi âm. Trong đó chữ tượng hình là loại chữ xuất hiện sớm nhất và cũng là phổ biến nhất.

Chữ Hán là loại chữ điển hình được phát triển trên cơ sở chữ tượng hình. Nghệ thuật thư pháp cũng bắt đầu từ chữ Giáp Cốt (tượng hình) bắt đầu.

Trải qua hơn 2.000 năm kế thừa và phát triển, nghệ thuật thư pháp qua các thời kỳ đã thể hiện sự phát triển kinh tế xã hội và định hướng giá trị của con người trong các thời kỳ cụ thể khác nhau.

Các kiểu chữ viết Thư pháp

Thư pháp Trung Hoa có thể chia thành 5 kiểu chữ viết phổ biến:

Chữ triện 篆書 (Triện thư)

Khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, ông đã sai thừa tướng Lý Tư thống nhất văn tự, tức là thống nhất các chữ viết giữa các nước trước đó từ đại triện thành chữ tiểu triện.



Chữ lệ 隸書 (lệ thư)

Là thư thể thông dụng trong công văn, kiểu chữ này rất phổ biến giữa thế kỷ 3 và 2 TCN.



Chữ khải 楷書 (khải thư hay chính thư 正書)

Chữ khải 楷書 (khải thư hay chính thư 正書) Là cải biên từ chữ lệ và bắt đầu phổ biến vào thế kỷ III công nguyên. Đây là kiểu chữ chính thức, chuẩn mực, dễ nhận biết, dễ đọc nhất và vẫn là phổ thông nhất trong các kiểu viết chữ Hán hiện nay.



Chữ hành 行書 (hành thư)

Là dạng viết nhanh của chữ khải, được dùng trong các giấy tờ thân mật (như thư từ) và đề tranh.



Chữ thảo 草書 (thảo thư)

Chữ thảo 草書 (thảo thư). Là thư thể được viết nhanh nhất, bút pháp phóng khoáng. Có chữ Hán khi viết bình thường theo lối chữ khải thì phải viết rất nhiều nét nhưng với thảo thư thì có thể viết bằng một nét.



Tính thẩm mĩ của Thư pháp Trung Quốc

Thư pháp đề cập đến các phương pháp viết, luật và quy tắc của các ký tự. Vẻ đẹp của thư pháp, phông chữ phải đẹp, cấu trúc đẹp, bố cục đẹp, nội dung bài viết được lồng ghép vào bố cục tổng thể và toàn bộ tác phẩm có thể phản ánh vẻ đẹp của tính cách, tâm trạng, suy nghĩ, ý chí và cảm xúc của người viết.

Nghệ thuật thư pháp thực chất là một nghệ thuật tổng hợp, tích hợp chữ Hán, thơ cổ, mỹ học, bố cục, cấu trúc của bản thân thư pháp, cấu trúc, bố cục, tu thân, tình cảm, ý chí, trí tuệ bình đẳng trong một biểu hiện.


Nó hoàn toàn không phải là một nghệ thuật thuần túy. Nếu chỉ cần ghép chữ Hán lại để viết cho hoa mỹ, cho dù là bắt chước phông chữ của người khác, có thể có hình dáng giống nhau, nhưng chẳng qua cũng chỉ là “người chép chữ”, không thể gọi là nghệ thuật thư pháp.

Nghệ thuật thư pháp có thể thể hiện cảm giác nhịp điệu như âm nhạc và vẻ đẹp đồ họa như nghệ thuật; nó có thể thể hiện cảm xúc của một người và có thể nói lên tính cách và khí chất của một người. Có thể truyền cảm hứng cho mọi người, có thể cho mọi người sức mạnh, có thể mang lại cho mọi người niềm vui.

Nó có thể cho mọi người trải nghiệm lĩnh vực nghệ thuật thư pháp, vì vậy sức hấp dẫn của nghệ thuật thư pháp có thể được tiếp tục và lưu truyền từ xa xưa đến nay, đây chính là ý nghĩa của nghệ thuật thư pháp.

Các yếu tố cần thiết luyện viết thư pháp

Thư pháp không chỉ đơn giản là một việc làm trong đoạn thời gian mà đó là cả quá trình. Nghệ thuật viết thư pháp cũng như nghệ thuật sống, nghệ thuật làm người vậy. Những người viết Thư pháp cũng thường có tư tưởng thông suốt, cách sống an yên và có phẩm cách riêng mình. Vậy làm sao để có thể luyện viết Thư pháp đẹp, cũng như trở thành một bản thân tốt hơn?

Kiên trì


Kiên trì là điều đầu tiên, cũng là quan trọng nhất. Đừng theo đuổi những con đường tắt. Nghệ thuật thư pháp không có con đường tắt. Chỉ có luyện tập chăm chỉ mới tạo ra thành quả ngọt ngào.

Đừng theo đuổi xu hướng đám đông

Những gì phù hợp với người khác có thể không phù hợp với bạn. Bạn nên chọn cho mình một bức thư pháp phù hợp dựa trên tính cách và khí chất của mình mà tạo ra kiểu chữ thư pháp cho riêng mình. Cần có khả năng suy ngẫm và xác định những tác phẩm thư pháp cổ nào thực sự tốt hoặc cái nào không phù hợp để bạn luyện tập.


Người xưa nói: “Nét chữ nết người”. Hãy chắc chắn để tìm ra loại phông chữ phù hợp với bạn để thực hành. Nghệ thuật thư pháp thích hợp để bản thân thưởng thức suốt đời. Người hướng nội học cách viết các ký tự hướng nội và người hướng ngoại cũng có cách viết riêng. Chỉ bằng cách này, bạn có thể nhận được kết quả gấp đôi với một nửa nỗ lực.

Một người viết thư pháp không để người khác xác định bạn nên viết gì và viết như thế nào.

Tìm cho mình một cây bút phù hợp và tâm đắc

Khi viết thư pháp, chúng ta phải biết cách dùng bút để trải nghiệm. Cây chút sẽ là người bạn tri kỷ nói cho người khác biết bạn là ai.


Nền tảng văn hóa cổ đại và kiến thức cơ bản về chữ Hán

Phải có những kỹ năng cơ bản về thơ cổ và chữ Hán cổ. Nét phẳng trong thơ có thể mở rộng cho tác phẩm thư pháp, chỗ nặng nên nặng, chỗ nhẹ nên nhẹ, khi khô nên khô, khi dày nên dày, khi to nên lớn.

Có sự sáng tạo, độc lập, cá tính riêng

Có sự sáng tạo, độc lập, cá tính riêng mà không làm mất đi ý định ban đầu của nghệ thuật thư pháp. Một tác phẩm hay phải có cái gì đó riêng và thể hiện bản thân một cách hoàn hảo.

Nghệ thuật thư pháp Trung Hoa đã tồn tại Ngàn năm và được đón nhận trên khắp thế giới chắc chắn có giá trị của riêng nó. Hiểu được những điều ấy, bạn còn ngại gì mà không thử với nghệ thuật độc đáo này?

Theo: Rita.vn